Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 69/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SỐP CỘP, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 69/2023/HS-ST NGÀY 22/09/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22/9/2023, tại Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 67/2023/TLST-HS ngày 29/8/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 69/2023/QĐXXST-HS ngày 11/9/2023 đối với bị cáo:

Mùa A L, sinh năm: 1973 tại huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản P, xã M, huyện S, tỉnh Sơn La; số định danh cá nhân: 014073xxxxxx; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: học lớp xóa mù chữ; dân tộc: Mông; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Mùa Chống L và bà Lầu Thị S (đã chết); có vợ là Sồng Thị M (đã chết) và 05 con, con lớn nhất sinh năm 2001, con nhỏ nhất sinh năm 2021; tiền án, tiền sự: Không có; bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/6/2023 cho đến nay; có mặt.

Người phiên dịch cho bị cáo: Bà Giàng Thị D, nghề nghiệp: công chức Huyện đoàn S; nơi cư trú: Bản Pe, xã S, huyện S, tỉnh Sơn La; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 11 giờ 30 phút ngày 03/6/2023, tổ công tác Đồn Biên phòng M phối hợp với Công an xã M làm nhiệm vụ tại khu vực bản P, xã M, huyện S, tỉnh Sơn La, phát hiện và bắt quả tang Mùa A L về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ là 01 gói nilon màu trắng bên trong có 02 cục nhựa liên kết màu đen; 01 bộ bàn đèn tự chế để sử dụng ma túy và 01 thẻ căn cước công dân mang tên Mùa A L.

Ngày 04/6/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện S đã bóc mở niêm phong, cân tịnh, lấy mẫu giám định và niêm phong lại vật chứng. Kết quả cân tịnh: 02 cục nhựa liên kết màu đen nghi là thuốc phiện có khối lượng 2,45 gam. Lấy toàn bộ làm mẫu giám định, ký hiệu L. Kết luận giám định số 1430/KL-KTHS ngày 05/6/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu L là ma túy; Loại thuốc phiện (nhựa thuốc phiện); khối lượng của mẫu gửi giám định là 2,45 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 2,45 gam; loại Thuốc phiện”.

Trong quá trình điều tra, Mùa A L đã khai nhận hành vi phạm tội như sau: Ngày 01/6/2023, Mùa A L từ nhà ở bản P, xã M đi làm nương một mình tại khu vực Mốc biên giới xxx thuộc bản P, xã M thì gặp một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết. L hỏi mua được của người đó được một gói thuốc phiện với giá 100.000 đồng, gói trong mảnh nilon màu trắng, mục đích đem về để sử dụng. L đem về cất giấu ở giường ngủ không cho ai biết. Khoảng 11 giờ ngày 03/6/2023 L đem ma túy ra để sử dụng. Khi đang sử dụng thì bị Tổ công tác phát hiện và bắt quả tang.

Bản Cáo trạng số 45/CT-VKSSC ngày 28/8/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện S, tỉnh Sơn La, truy tố bị cáo Mùa A L về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm b khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo khai nghiện ma túy từ khoảng năm 2018 và thừa nhận hành vi như nội dung Cáo trạng. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện S giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Mùa A L về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 12 đến 15 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 47 Bộ luật Hình sự, tịch thu tiêu hủy phong bì đựng vật chứng, 01 bộ bàn đèn tự chế, trả lại cho bị cáo 01 thẻ căn cước công dân mang tên Mùa A L. Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Ý kiến của bị cáo: Nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện S, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện S, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố: đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

2 [2] Về hành vi của bị cáo: Ngày 03/6/2023, bị cáo Mùa A L bị bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép 2,45 gam thuốc phiện để sử dụng. Bị cáo khai nguồn gốc thuốc phiện là mua của một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết tại khu vực mốc biên giới 175 thuộc bản P, xã M với giá 100.000 đồng từ ngày 01/6/2023. Lời khai của bị cáo là thống nhất trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Kết luận giám định, lời khai của người chứng kiến. Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ việc tàng trữ, sử dụng ma túy là vi phạm pháp luật nhưng do nghiện nên bị cáo vẫn thực hiện. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện S truy tố bị cáo đã về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm b khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng, trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự, an toàn xã hội tại địa phương. Do đó, cần áp dụng hình phạt nghiêm minh để cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Về đối tượng bán ma túy cho bị cáo: Trong quá trình điều tra, bị cáo khai mua ma túy của một người đàn ông dân tộc Mông không biết tên và địa chỉ. Ngoài lời khai của bị cáo, không có tài liệu, chứng cứ nào khác chứng minh. Do vậy không có căn cứ để xử lý và bị cáo phải chịu trách nhiệm về khối lượng ma túy bị phát hiện, bắt giữ.

[5] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo là người nghiện ma túy. Tuy nhiên hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo là lao động chính duy nhất trong gia đình, vợ chết năm 2022, một mình phải nuôi 02 con nhỏ (sinh năm 2017 và sinh năm 2021). Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo đã thành khẩn khai báo và ăn năn, hối cải về hành vi của mình, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo là người dân tộc thiểu số, gia đình thuộc hộ nghèo, bị cáo không biết chữ, hiểu biết xã hội hạn chế, sống ở vùng biên giới có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Do vậy, đề nghị của Viện kiểm sát về việc xác định đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự là có căn cứ.

[6] Về hình phạt bổ sung: Khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.". Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo thuộc hộ nghèo, điều kiện kinh tế khó khăn do vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng: Một bộ bàn đèn tự chế là công cụ bị cáo dùng để hút thuốc phiện, cần tịch thu tiêu hủy. Phong bì thư đựng vật chứng, túi nilon đựng vật chứng ban đầu là vật không còn giá trị sử dụng, cần tiêu hủy. Bộ bàn đèn tự chế là vật bị cáo dùng để sử dụng ma túy, cần tịch thu tiêu hủy. Căn cước công dân là giấy tờ nhân thân không liên quan đến hành vi phạm tội, cần trả lại cho bị cáo.

3 [8] Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số thuộc hộ nghèo, sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự: Tuyên bố bị cáo Mùa A L phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý; xử phạt bị cáo Mùa A L 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 03/6/2023. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Mùa A L.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở và 01 (một) mảnh nilon màu trắng gói vật chứng ban đầu cho vào 01 (một) phong bì của Đồn Biên phòng M niêm phong kín, mặt trước ghi “ Vật chứng lưu kho vụ Mùa A L

 - Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 03/6/2023 tại bản P xã M, huyện S, tỉnh Sơn La. Bên trong phong bì có chứa 01 vỏ phong bì đã bóc mở; 01 (một) mạnh nilon màu trắng ban đầu”; 01 (một) bộ bàn đèn tự chế dùng để hút thuốc phiện, đã qua sử dụng.

- Trả lại cho bị cáo: 01 (một) thẻ căn cước công dân của Mùa A L số 014073xxxxxx cấp ngày 12/9/2022.

3. Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Mùa A L.

4. Căn cứ Điều 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 22/9/2023).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

11
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 69/2023/HS-ST

Số hiệu:69/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sốp Cộp - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về