Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 69/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HƯNG, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 69/2022/HS-ST NGÀY 28/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 28 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 67/2022/HSST ngày 09 tháng 9 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 75/2022/HSST-QĐ ngày 16 tháng 9 năm 2022, đối với bị cáo:

Nguyễn Văn Đ (tên gọi khác: Không), sinh ngày 07/7/19xx Nơi sinh, nơi cư trú: Thôn KC, xã AC, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình.

Trình độ văn hóa: 09/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do.

Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Nguyễn Văn Ng, sinh năm 1958 và bà Bùi Thị Th, sinh năm 1959.

Vợ Nguyễn Thị Th1, sinh năm 1993; Có 02 con: Con lớn sinh năm 2010, con nhỏ sinh năm 2018.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 30/6/2022 đến ngày 03/7/2022 chuyển tạm giam cho đến nay. Hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Đông Hưng, trích xuất có mặt tại phiên tòa.

* Người chứng kiến:

1. Ông Trần Duy T, sinh năm 1956

2. Anh Nguyễn Kiên C, sinh năm 1977 Đều có địa chỉ: Thôn HN, xã LG, huyện Đông Hưng, Thái Bình (Ông T, anh C đều vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn Đ là người sử dụng ma túy tại địa phương. Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên khoảng 11 giờ ngày 30/6/2022 Đ đi bộ từ nhà ra trục đường 216 đi nhờ xe của một người không quen biết đến xã Lô Giang, huyện Đông Hưng để mua ma túy về sử dụng. Khi đi đến gần cầu Đình Thượng, Đ xuống xe và đi bộ vào đường phía bên trái với mục đích tìm người bán ma túy. Khi Đ đi được khoảng 100m thì gặp một người đàn ông khoảng 50 tuổi, không biết tên, địa chỉ đeo khẩu trang đang đứng ở ven đường. Đ hỏi mua 400.000 đồng ma túy và nhận lại 02 gói ma túy được gói bằng giấy kim loại màu trắng. Đ cầm 02 gói ma túy bỏ vào túi quần bên trái phía trước đang mặc và đi bộ quay lại trục đường xã Lô Giang để đi nhờ xe về nhà. Khi Đ đang đi bộ trên trục đường xã thuộc thôn Hoàng Nông, xã Lô Giang, huyện Đông Hưng thì bị tổ công tác Công an huyện Đông Hưng phối hợp Công an Lô Giang yêu cầu kiểm tra. Tổ công tác đã mời người chứng kiến và giải thích quy định của pháp luật cho Đ. Trước sự chứng kiến của mọi người, Đ tự giác giao nộp từ túi quần bên trái phía trước đang mặc giao nộp cho tổ công tác 02 gói nhỏ đều được gói bằng giấy kim loại màu trắng, kiểm tra bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục, Đ khai là ma túy, loại Hêrôin mua về để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã niêm phong vào phong bì thư dán kín, dẫn giải Đ về trụ sở Ủy ban nhân dân xã Lô Giang, huyện Đông Hưng T hành lập các biên bản theo quy định.

Khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Văn Đ tại thôn Kim Châu II, xã An Châu, huyện Đông Hưng, Cơ quan điều tra không phát hiện thu giữ gì.

Tại Bản kết luận giám định số 275/KL-KTHS(MT) ngày 01/7/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Thái Bình kết luận: “Mẫu vật gửi giám định là ma túy, loại Heroine, khối lượng 0,1930 gam”.

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hưng giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên Cáo trạng số 68/CT-VKSĐH ngày 09/9/2022 đã truy tố, hành vi của bị cáo Nguyễn Văn Đ đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử:

* Về áp dụng pháp luật và hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 50; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Đề nghị tuyên phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù và không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

* Ngoài ra còn đề nghị HĐXX giải quyết về vật chứng, án phí của vụ án.

Bị cáo Nguyễn Văn Đ nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an huyện Đông Hưng, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hưng, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo và phù hợp với chính lời khai của bị cáo tại giai đoạn điều tra; phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an huyện Đông Hưng lập hồi 12 giờ 45 phút ngày 30/6/2022 tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã Lô Giang, huyện Đông Hưng; Bản ảnh vật chứng; Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ; Biên bản ghi lời khai của người chứng kiến là ông Trần Duy T, anh Nguyễn Kiên C cùng toàn bộ các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ.

[2.1] Do vậy có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 11 giờ 45 phút ngày 30/6/2022 tại trục đường thuộc thôn Hoàng Nông, xã Lô Giang, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình, bị cáo Nguyễn Văn Đ có hành vi tàng trữ trái phép tại túi quần bên trái đang mặc 02 gói nhỏ Hêrôin, có khối lượng là 0,1930 gam với mục đích để sử dụng cho bản thân, bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đông Hưng phát hiện bắt quả tang.

Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn Đ đã phạm vào tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

“Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại các điều 248, 250, 251 và 252 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

b) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 01 gam đến dưới 500 gam;

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

d) Lá cây côca; lá khát (lá cây Catha edulis); lá, rễ, thân, cành, hoa, quả của cây cần sa hoặc bộ phận của cây khác có chứa chất ma túy do Chính phủ quy định có khối lượng từ 01 kilôgam đến dưới 10 kilôgam;

đ) Quả thuốc phiện khô có khối lượng từ 05 kilôgam đến dưới 50 kilôgam;

e) Quả thuốc phiện tươi có khối lượng từ 01 kilôgam đến dưới 10 kilôgam;

g) Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng từ 01 gam đến dưới 20 gam;

h) Các chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích từ 10 mililít đến dưới 100 mililít;

i) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm b đến điểm h khoản này.

...”.

[2.2] Xét tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi lẽ: Đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước, gây mất trật tự an ninh an toàn xã hội. Ma tuý còn là nguồn gốc phát sinh các loại bệnh tật ảnh hưởng đến giống nòi và thuần phong mỹ tục của dân tộc, kéo theo sự xuống cấp của đạo đức xã hội và là nguồn gốc của nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác. Bị cáo nhận thức được việc sử dụng ma túy là nguy hiểm và vi phạm pháp luật nhưng do bị cáo đua đòi bạn bè vẫn cố tình sử dụng nên cần áp dụng hình phạt cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung.

[2.3] Khi xem xét, cân nhắc hình phạt cần xem xét đến tình tiết tăng nặng và các tình tiết giảm nhẹ:

- Bị cáo Nguyễn Văn Đ không phải chịu tình tiết tăng nặng quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

- Về các tình tiết giảm nhẹ: Tại giai đoạn điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Vì vậy, cần áp dụng mức hình phạt như đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hưng tại phiên tòa là phù hợp.

[2.4] Về hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Tuy nhiên theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo Nguyễn Văn Đ tại phiên tòa cho thấy bị cáo là lao động tự do thu nhập không ổn định, bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy không vì mục đích vụ lợi, vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[2.5] Trong vụ án này:

- Về nguồn gốc số ma túy: Nguyễn Văn Đ khai mua ma túy của một người đàn ông khoảng 50 tuổi, không biết tên và địa chỉ tại khu vực gần cầu Đình Thượng, thuộc thôn Hoàng Nông, xã Lô Giang, huyện Đông Hưng nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra, xử lý.

- Số tiền 400.000 đồng, bị cáo dùng để mua ma túy là do bị cáo lao động mà có nên không truy thu.

[3] Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Đối với 0,1350 gam ma túy hoàn trả lại sau giám định có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Đông Hưng và Chi cục thi hành án dân sự huyện Đông Hưng ngày 09/9/2022 cần tịch thu, tiêu hủy.

[4] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Văn Đ phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn Đ phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Áp dụng điều luật và hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249;

điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 50; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ: 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thêi h¹n chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ 30/6/2022.

- Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Nguyễn Văn Đ.

3. Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu, tiêu hủy: 0,1350 gam ma túy hoàn trả lại sau giám định có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Đông Hưng và Chi cục thi hành án dân sự huyện Đông Hưng ngày 09/9/2022.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

Bị cáo Nguyễn Văn Đ phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Văn Đ có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

3
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 69/2022/HS-ST

Số hiệu:69/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Hưng - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về