Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 66/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CK, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 66/2022/HS-ST NGÀY 29/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29/9/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện CK, tỉnh Phú Thọ, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 67/2022/TLST-HS ngày 16/8/2022, theo Q định đưa vụ án ra xét xử số 67/2022/QĐXXST-HS ngày 29/8/2022 đối với các bị cáo:

1. Hoàng Văn Q, sinh năm 1972 tại huyện CK, tỉnh Phú Thọ; nơi cư trú: Khu T, xã Đ, huyện C, tỉnh Phú Thọ; tên gọi khác: Không; giới tính: Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; đảng, đoàn thể: Không; con ông Hoàng Đình B (đã chết) và bà Đặng Thị L, sinh năm 1934; có vợ là Nguyễn Thị Hồng H, sinh năm 1973 và 02 con (Con lớn sinh năm 1985, con nhỏ sinh năm 1989); tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tốt; danh, chỉ bản số 104 do Công an huyện CK, tỉnh Phú Thọ lập ngày 28/4/2022; bị bắt, tạm giữ từ 14/4/2022 đến ngày 23/4/2022 áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên toà.

2. Đặng Văn Đ, sinh năm 1975 tại huyện C, tỉnh Phú Thọ; nơi ĐKHKTT: Khu V, xã Đ, huyện C, tỉnh Phú Thọ; nơi cư trú: Khu Đ, xã Đ, huyện C, tỉnh Phú Thọ; tên gọi khác: Không; giới tính: Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; đảng, đoàn thể: Không; con ông Đặng Văn A (đã chết) và bà Hà Thị T (đã chết); có vợ là Sằm Thị H, sinh năm 1981 và 04 con (Con lớn sinh năm 1995, con nhỏ sinh năm 2019); tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tại bản án số 54/2010/HSST ngày 29/10/2010 của Tòa án nhân dân huyện CK, tỉnh Phú Thọ xử phạt Đặng Văn Đ 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt chính; nộp tiền án phí vào ngày 23/3/2011; danh, chỉ bản số 103 do Công an huyện CK, tỉnh Phú Thọ lập ngày 28/4/2022; bị bắt, tạm giữ từ 14/4/2022 đến ngày 23/4/2022 áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên toà.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: ông Bùi Văn B, sinh năm 1954 ở khu Đoàn Kết, thị trấn CK, huyện CK, Phú Thọ. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 13 giờ 50 phút ngày 14/4/2022 tổ công tác Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Phú Thọ phối hợp với Công an xã Đồng Lương, huyện CK đang làm nhiệm vụ tại đường quốc lộ 32C cũ thuộc khu 1 (nay là khu Đ), xã Đ, huyện C, tỉnh Phú Thọ phát hiện Đặng Văn Đ, đang đứng một mình tại ven đường, có biểu hiện nghi vấn. Nên tổ công tác tiến hành kiểm tra, thì Đ đã tự nguyện giao nộp 03 gói giấy có đặc điểm: 01 gói giấy bạc mặt ngoài màu trắng, mặt trong màu trắng bạc bên trong gói giấy có chất bột cục màu trắng; 02 gói giấy hai mặt đều màu trắng bên trong có chất bột, cục màu trắng, Đ khai nhận đây là ma túy Heroine, Đ tàng trữ nhằm mục đích để sử dụng cho bản thân. Vật chứng đã thu giữ: 03 (ba) gói ma túy ma túy Heroine do Đ tự nguyện giao nộp có đặc điểm nêu trên; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu ACE, màu đen kèm theo 01 thẻ sim, số thuê bao 0865.579.6xx, IMEI: 3590539 14260308, đã qua sử dụng. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng theo quy định của pháp luật.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Phú Thọ đã có lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở của Đặng Văn Đ, quá trình khám xét đã thu giữ 01 căn cước công dân mang tên Đặng Văn Đ. Sau khi bị bắt quả tang, tại Cơ quan điều tra Đ khai nhận, số ma túy trên Đ mua của Hoàng Văn Q, sinh năm 1972, nơi cư trú: khu T, xã Đ, huyện C, tỉnh Phú Thọ vào khoảng 13 giờ 20 phút ngày 14/4/2022, tại khu vực hàng rào phía sau nhà của Q với giá 500.000đ. Cùng ngày cơ quan cảnh sát điều tra – Công an tỉnh Phú Thọ đã tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở và ra Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Hoàng Văn Q. Khi lập biên bản giữ người trong trường hợp khẩn cấp, Cơ quan điều tra đã thu giữ của Q những vật chứng sau: 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG, màu vàng đồng, IMEI 1: 352987107206494101, kèm theo hai sim điện thoại số thuê bao 0382.902.6xx và 0978.718.0xx; 01 ví giả da màu đen đã cũ; 01 căn cước công dân mang tên Hoàng Văn Q; tiền VNĐ: 1.040.000đ (một triệu không trăm bốn mươi nghìn đồng) trong đó có 10 tờ mệnh giá 50.000đ (Q thừa nhận trong đó có 500.000đ là số tiền có được do bán trái phép chất ma túy cho Đ); 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại WAVE, màu đen, BKS 19Y2- 27xx, gương bên phải bị vỡ, xe đã qua sử dụng không kiểm tra chất lượng.

Ngày 14/4/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an tỉnh Phú Thọ ra Q định trưng cầu Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Phú Thọ giám định chất bột cục màu trắng chứa trong 03 (ba) gói giấy tạm giữ của Đặng Văn Đ đã được niêm phong gửi giám định có phải ma túy không? Loại ma túy gì? Khối lượng bao nhiêu? Tại Kết luận giám định số 501/KLGĐ ngày 18/4/2022, Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Phú Thọ kết luận: Chất bột, cục màu trắng chứa bên trong 03 gói giấy gửi đến giám định là ma túy, loại Heroine, có tổng khối lượng là: 0,114 gam.

* Heroine là chất ma tuý nằm trong Danh mục I, số thứ tự 09, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

* Hoàn lại đối tượng giám định: 0,056 gam chất bột, cục màu trắng cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định, được niêm phong, dán kín trong 01 bì giấy bên ngoài có 05 dấu hình tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Phú Thọ và chữ ký của các thành phần liên quan tại các mép dán. Ngày 18/4/2022 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Phú Thọ đã chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án và bàn giao đối tượng đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện CK, tỉnh Phú Thọ để điều tra, xử lý theo thẩm quyền.

Quá trình điều tra đã xác định:

Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên khoảng 13 giờ 20 phút ngày 14/4/2022 Đặng Văn Đ dùng số điện thoại 0865.579.6xx gọi đến số điện thoại 0978.718.0xx của Hoàng Văn Q để hỏi mua 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) tiền ma túy loại Heroine, Q đồng ý và hẹn Đ đến khu vực hàng rào phía sau nhà Q tại khu T, xã Đ, huyện C để bán ma túy cho Đ. Khi Đ đến điểm hẹn, Q (đứng ở bên trong hàng rào) đưa cho Đ (đứng ở bên ngoài hàng rào) 01 gói ma túy loại Heroine, Đ đưa cho Q số tiền 500.000đ (gồm 10 tờ 50.000đ tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang lưu hành) rồi ra về. Trên đường về, Đ có rẽ vào vườn chuối ven đường và chia số ma túy vừa mua được thành 03 gói nhỏ để sử dụng dần. Khi đi đến đoạn đường quốc lộ 32C cũ thuộc khu 1, xã Đ, huyện C, tỉnh Phú Thọ thì bị tổ công tác Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Phú Thọ phối hợp với Công an xã Đ, huyện C phát hiện và lập biên bản bắt quả tang như đã nêu trên. Tại Cơ quan điều tra Hoàng Văn Q thừa nhận ngày 14/4/2022 Q bán cho Đ 01 gói ma túy với giá là: 500.000đ như Đ đã khai.

Ngày 14/4/2022 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Phú Thọ đã tiến hành xác định tình trạng sử dụng chất ma túy đối với Đặng Văn Đ và Hoàng Văn Q. Kết quả xác định: Đ và Q đều dương tính với chất ma túy Heroine (MOP).

Về nguồn gốc số ma túy Q bán cho Đ ngày 14/4/2022, Q khai mua của một người phụ nữ (không rõ tên, tuổi, địa chỉ) tại khu vực gần cầu T (địa phận thành phố Hà Nội) vào ngày 13/4/2022 với giá 300.000đ, sau đó Q mang về dùng một ít, còn một ít bán cho Đ. Ngoài lần bán ma túy cho Đ nói trên Q không bán ma túy cho Đ lần nào khác và cũng không bán cho ai. Quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện CK không xác định được người phụ nữ bán ma túy cho Q ở khu vực cầu T, thành phố Hà Nội như Q đã khai.

Quá trình giải Q vụ án, các bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của bản thân. Lời khai của Đặng Văn Đ và Hoàng Văn Q hoàn toàn phù hợp với nhau, phù hợp với vật chứng đã tạm giữ và các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được trong hồ sơ vụ án.

Tại bản cáo trạng số 49/2022/CT-VKS, ngày 10/8/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện CK, tỉnh Phú Thọ đã Q định truy tố Đặng Văn Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự; truy tố Hoàng Văn Q về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên Q định truy tố và đề nghị:

Về trách nhiệm hình sự:

- Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 251; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn Q phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Hoàng Văn Q từ 24 (Hai mươi bốn) đến 27 (Hai mươi bảy) tháng tù. Được trừ thời gian bị cáo bị tạm giữ (Từ ngày 14/4/2022 đến ngày 23/4/2022). Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Hoàng Văn Q.

- Căn cứ vào: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Đặng Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Đặng Văn Đ từ 15 (Mười lăm) đến 18 (Mười tám) tháng tù. Được trừ thời gian bị cáo bị tạm giữ (Từ ngày 14/4/2022 đến ngày 23/4/2022). Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Đặng Văn Đ.

Về vật chứng:

- Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a, khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

- Xác nhận ngày 8/6/2022, Cơ quan điều tra đã trả lại 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại WAVE, màu đen, BKS 19Y2-27xx cho ông Bùi Văn B, sinh năm 1954 ở khu Đ, thị trấn C, huyện C là đúng quy định của pháp luật.

- Tịch thu để tiêu hủy: 01 (một) bì niêm phong số 501 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Phú Thọ được dán kín; mặt trước bì giấy có ghi “hoàn lại 0,056 gam chất bột, cục màu trắng cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định trong vụ bắt người phạm tội quả tang đối với Đặng Văn Đ, sinh năm 1975; HKTT: Khu 3 (nay là khu Vạn Phong), xã Đồng Lương, huyện CK ngày 14/4/2022. Mặt sau có 05 dấu hình tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ và 04 loại chữ ký tại vị trí các mép dán. (Theo biên bản giao, nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng đến Chi cục thi hành án dân sự huyện CK ngày 11/8/2022).

- Tịch thu, sung công quỹ Nhà nước: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu ACE, màu đen kèm theo 01 thẻ sim số thuê bao 0865.579.6xx, IMEI: 359053914260308, đã qua sử dụng (điện thoại của Đ); 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG, màu vàng đồng, IMEI 1: 352987107206494101; kèm 01 sim điện thoại số thuê bao 0978.718.0xx (điện thoại của Q) và tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang lưu hành: 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng).

- Trả lại cho Đặng Văn Đ: 01 căn cước công dân mang tên Đặng Văn Đ; Trả lại cho Hoàng Văn Q: 01 căn cước công dân mang tên Hoàng Văn Q; 01 ví giả da màu đen đã cũ; 01 sim điện thoại số thuê bao 0382xxx626 và tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang lưu hành: 540.000đ (Năm trăm bốn mươi nghìn đồng) nhưng tạm giữ 540.000đồng để đảm bảo thi hành án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng hình sự:

Các Q định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra, hành vi tố tụng của điều tra viên trong quá trình điều tra vụ án; Q định tố tụng của Viện kiểm sát và hành vi tố tụng của Kiểm sát viên trong giai đoạn truy tố là đúng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Q định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Q định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về căn cứ buộc tội:

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và phù hợp với lời khai của người có quyền lợi liên quan đến vụ án, người làm chứng, vật chứng thu giữ được và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, nên có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 13 giờ 50 phút ngày 14/4/2022, tại đường quốc lộ 32C cũ thuộc khu 1 (nay là khu Đ), xã Đ, huyện C, tỉnh Phú Thọ, bị cáo Đặng Văn Đ có hành vi tàng trữ trái phép 0,114 gam ma túy, loại Heroin nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Số ma túy trên có nguồn gốc mua từ Hoàng Văn Q tại khu T, xã Đ, huyện C vào khoảng 13 giờ 20 phút ngày 14/4/2022. Hành vi nêu trên của bị cáo Đặng Văn Đ đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự; hành vi của bị cáo Hoàng Văn Q đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự. Do vậy, Q định truy tố của Viện kiểm sát đối với bị cáo Đặng Văn Đ và bị cáo Hoàng Văn Q là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất hành vi phạm tội:

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý, sử dụng chất ma túy của Nhà nước, là nguyên nhân phát sinh ra nhiều loại tội phạm khác; xâm phạm trật tự, an toàn xã hội và thuộc trường hợp nghiêm trọng.

[4] Về tiền án, tiền sự:

Các bị cáo đều không có tiền án, tiền sự.

Bị cáo Đặng Văn Đ có nhân thân xấu: Tại bản án số 54/2010/HSST ngày 29/10/2010 của Tòa án nhân dân huyện CK, tỉnh Phú Thọ xử phạt Đ 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 điều 194 BLHS năm 1999. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt chính; nộp tiền án phí vào ngày 23/3/2011.

[5] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Các bị cáo được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự là: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Căn cứ vào tính chất hành vi phạm tội, nhân thân và tình tiết giảm nhẹ, của bị cáo, trên cơ sở để phục vụ công tác đấu tranh chống, phòng ngừa chung tội phạm và tạo điều kiện cho bị cáo có cơ hội sửa chữa sai lầm, cần chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là áp dụng hình phạt tù để các bị cáo cải tạo trở thành công dân có ích cho xã hội.

[6] Về hình phạt bổ sung:

Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự, thì bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng. Kết quả xác minh của Cơ quan điều tra và lời trình bày của bị cáo tại phiên tòa cho thấy các bị cáo đều có tài sản chung với gia đình nhưng không có tài sản riêng gì có giá trị, các bị cáo đều làm nghề lao động tự do không ổn định, không xác định được thu nhập. Vì vậy, cần chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[7] Về vật chứng:

Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại WAVE, màu đen, BKS 19Y2- 27xx, gương bên phải bị vỡ, xe đã qua sử dụng không kiểm tra chất lượng thu giữ của Q: quá trình điều tra xác định đây là tài sản hợp pháp của ông Bùi Văn B, sinh năm 1954 ở khu Đ, thị trấn C, huyện C. Ngày 10/4/2022 Q đã mượn chiếc xe trên của ông B để làm phương tiện đi lại, ông B không biết Q sử dụng làm phương tiện phạm tội. Ngày 08/6/2022 ông B có đơn xin nhận lại tài sản, Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe trên cho ông B là đúng quy định của pháp luật Đối với số ma túy còn lại sau giám định (0,056 gam) cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định là vật cấm lưu hành cần tịch thu để tiêu hủy.

Đối với: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu ACE, màu đen kèm theo 01 thẻ sim số thuê bao 0865.579.6xx, IMEI: 3590539 14260308, đã qua sử dụng (điện thoại của Đ); 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG, màu vàng đồng, IMEI 1: 352987107206494101; kèm 01 sim điện thoại số thuê bao 0978.718.0xx (điện thoại của Q) là điện thoại và số thuê bao mà Đ và Q sử dụng để liên lạc, trao đổi với nhau về việc mua, bán ma tuý và tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang lưu hành: 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) là số tiền Q có được do bán ma túy cho Đ cần tịch thu, sung công quỹ Nhà nước.

Đối với: 01 căn cước công dân mang tên Đặng Văn Đ không liên quan đến hành vi phạm tội, cần trả lại cho Đ; 01 căn cước công dân mang tên Hoàng Văn Q;

01 ví giả da màu đen đã cũ; 01 sim điện thoại số thuê bao 0382xxx626 là tài sản của Hoàng Văn Q, không liên quan đến hành vi phạm tội, cần trả lại cho Q.

Đối với: tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là 540.000đ (năm trăm bốn mươi nghìn đồng) quá trình điều tra xác định đây là số tiền do Q lao động mà có, không liên quan đến hành vi phạm tội, cần trả lại cho Hoàng Văn Q nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[8] Về án phí:

Bị cáo Hoàng Văn Q và bị cáo Đặng Văn Đ phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về trách nhiệm hình sự:

1.1. Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 251; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn Q phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Hoàng Văn Q 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Được trừ thời gian bị tạm giữ (Từ ngày 14/4/2022 đến ngày 23/4/2022). Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Hoàng Văn Q.

1.2. Căn cứ vào: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Đặng Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Đặng Văn Đ 15 (Mười lăm) tháng tù. Được trừ thời gian bị tạm giữ (Từ ngày 14/4/2022 đến ngày 23/4/2022). Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Đặng Văn Đ.

3. Về vật chứng:

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a, điểm khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

3.1. Xác nhận ngày 08/6/2022, Cơ quan điều tra đã trả lại 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại WAVE, màu đen, BKS 19Y2-27xx cho ông Bùi Văn B là đúng quy định của pháp luật.

3.2. Tịch thu để tiêu hủy: 01 (một) bì niêm phong số 501 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Phú Thọ được dán kín; mặt trước bì giấy có ghi “hoàn lại 0,056 gam chất bột cục màu trắng cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định trong vụ bắt người phạm tội quả tang đối với Đặng Văn Đ, sinh năm 1975; HKTT:Khu 3 (nay là khu V), xã Đ, huyện C ngày 14/4/2022. Mặt sau có 05 dấu hình tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ và 04 loại chữ ký tại vị trí các mép dán. (Theo biên bản giao, nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng đến Chi cục thi hành án dân sự huyện CK ngày 11/8/2022).

3.3. Tịch thu, sung công quỹ Nhà nước: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu ACE, màu đen kèm theo 01 thẻ sim số thuê bao 0865.579.6xx, IMEI: 3590539 14260308, đã qua sử dụng (điện thoại của Đ); 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG, màu vàng đồng, IMEI 1: 352987107206494101; kèm 01 sim điện thoại số thuê bao 0978.718.0xx (điện thoại của Q) và tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang lưu hành: 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng).

3.4. Trả lại cho Đặng Văn Đ: 01 căn cước công dân mang tên Đặng Văn Đ; Trả lại cho Hoàng Văn Q: 01 căn cước công dân mang tên Hoàng Văn Q; 01 ví giả da màu đen đã cũ; 01 sim điện thoại số thuê bao 0382xxx626 và tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang lưu hành: 540.000đ (Năm trăm bốn mươi nghìn đồng) nhưng tạm giữ 540.000đồng để đảm bảo thi hành án.

4. Về án phí:

Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Hoàng Văn Q và bị cáo Đặng Văn Đ mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, bị cáo có mặt được quyền kháng cáo để yêu cầu xét xử phúc thẩm; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hợp lệ hoặc được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

5
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 66/2022/HS-ST

Số hiệu:66/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cẩm Khê - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về