TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ Đ, TỈNH B
BẢN ÁN 65/2024/HS-ST NGÀY 16/01/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 16 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 66/2023/TLST-HS ngày 13 tháng 12 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 67/2024/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 01 năm 2024, đối với bị cáo:
Họ và tên: Quàng Văn S; Không có tên gọi khác; Sinh ngày: 03/10/1977; tại tỉnh B;
Nơi cư trú: Bản C, xã P, thành phố Đ, tỉnh B.
Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Khơ mú; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: 02/12 phổ thông; Con ông: Quàng Văn S (đã chết), con bà: Quàng Thị O; Vợ: Quàng Thị D, con: Bị cáo có 03 con, con lớn sinh năm 1999, con nhỏ nhất sinh năm 2006. Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 28/6/2010 bị cáo bị Toà án nhân dân huyện B, tỉnh B xét xử và xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo đã chấp hành xong toàn bộ bản án, nên đương nhiên được xoá án tích; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 25/9/2023, sau đó bị tạm giam cho đến ngày xét xử (Có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 09 giờ ngày 25/9/2023 bị cáo Quàng Văn S đi bộ từ nhà đến bản Đông Mệt, xã P, thành phố Đ để tìm mua ma túy. Tại đây, S gặp một người đàn ông không quen biết, hỏi và mua được 01 gói ma túy có đặc điểm bên ngoài được gói bằng mảnh nilon màu xanh, tiếp đến là mảnh nilon màu trắng, bên trong có cục chất bột màu trắng, với giá 50.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, bị cáo giấu vào lỗ mũi bên trái và đi bộ về. Hồi 10 giờ 00 phút cùng ngày, khi bị cáo đi đến bản C, xã P, thành phố Đ thì bị tổ công tác công an xã Thanh Minh phối hợp với công an xã P phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng. Bị cáo khai đó là ma túy, loại Heroine, mục đích tàng trữ để sử dụng.
Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng hồi 17 giờ 00 phút, ngày 25/9/2023 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ và kết luận giám định số 1451/KL-KTHS ngày 02/10/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh B kết luận: Mẫu cục chất bột màu trắng đục gửi giám định thu giữ của bị cáo Quàng Văn S là ma túy, loại Heroine, khối lượng 0,2 gam.
Tại bản cáo trạng số 01/CT-VKS-TPĐBP ngày 12/12/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ đã truy tố bị cáo Quàng Văn S về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS.
Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Quàng Văn S về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy", đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38/BLHS, xử phạt bị cáo từ 15 tháng đến 18 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47/BLHS, điểm a, c khoản 2 Điều 106/BLTTHS. Tịch thu tiêu hủy 0,1 gam Heroine (Vật chứng hoàn lại sau giám định), 01 mảnh nilon màu xanh, 01 mảnh nilon màu trắng; Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng đặc biệt khó khăn, nên được miễn án phí theo quy định của pháp luật.
Bị cáo Quàng Văn S không có lời bào chữa nào, nhất trí với bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ.
Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi của bị cáo bị truy tố: Hồi 10 giờ 00 phút ngày 25/9/2023, tại bản C, xã P, thành phố Đ, tỉnh B, Quàng Văn S đã có hành vi cất giấu trái phép trên người 0,2 gam Heroine, mục đích để sử dụng.
Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với: Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 10 giờ 30 phút ngày 25/9/2023, biên bản niêm phong vật chứng, biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng hồi 17 giờ 00 phút, ngày 25/9/2023 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ và kết luận giám định số 1451/KL-KTHS ngày 02/10/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh B.
Do đó có đủ cơ sở khẳng định: Hành vi tàng trữ trái phép 0,2 gam chất ma túy, với mục đích để sử dụng của bị cáo Quàng Văn S là phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS.
Hành vi của bị cáo đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, bị cáo phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, khi thực hiện hành vi phạm tội có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự.
Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s, khoản 1 Điều 51/BLHS. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại Điều 52/BLHS. Bị cáo là người có nhân thân xấu: Ngày 28/6/2010 bị Toà án nhân dân huyện B xét xử và xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, ngày 11/11/2010 bị cáo chấp hành xong hình phạt tù, bị cáo đã chấp hành xong toàn bộ bản án, nên đương nhiên được xoá án tích;
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội. Vì vậy, cần phải áp dụng một hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo là hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, để bị cáo có điều kiện cai nghiện, đồng thời để cải tạo, giáo dục bị cáo thành người công dân có ích cho xã hội.
Bị cáo là người nghiện ma túy, nhận thức rõ hành vi cất giấu trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, với khối lượng ma túy mà bị cáo đã tàng trữ, với tình tiết giảm nhẹ hình phạt mà bị cáo được hưởng, thì mức hình phạt mà đại diện viện kiểm sát đề nghị là phù hợp, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[2]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố Đ, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[3]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249/BLHS thì ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tuy nhiên theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy, nghề nghiệp của bị cáo là làm ruộng, thu nhập không ổn định, điều kiện kinh tế khó khăn. Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[4]. Đối với người đàn ông không quen biết đã bán ma túy cho bị cáo, bị cáo không biết họ, tên, địa chỉ của người này, cơ quan điều tra không xác minh làm rõ được, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[5]. Vật chứng: Đối với 0,1 gam Heroine (Vật chứng hoàn lại sau giám định) là vật nhà nước cấm tàng trữ, 01 mảnh nilon màu xanh, 01 mảnh nilon màu trắng, là vật không còn giá trị, cần tịch thu tiêu hủy.
[6]. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136/BLTTHS, điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án, bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng đặc biệt khó khăn, nên được miễn án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38/Bộ luật hình sự.
- Tuyên bố bị cáo Quàng Văn S phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".
- Xử phạt bị cáo Quàng Văn S 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (25/9/2023).
2. Vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47/BLHS, điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106/BLTTHS, tịch thu tiêu hủy 0,1 gam Heroine (Vật chứng hoàn lại sau giám định), 01 mảnh nilon màu xanh, 01 mảnh nilon màu trắng (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/12/2023 giữa Công an thành phố Đ và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đ, tỉnh B).
3. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136/BLTTHS, điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án, bị cáo được miễn án phí theo quy định của pháp luật.
4. Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333/BLTTHS, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (Ngày 16/01/2024).
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 65/2024/HS-ST
Số hiệu: | 65/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Xoài - Bình Phước |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/01/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về