Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 65/2024/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BOM, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 65/2024/HS-ST NGÀY 15/03/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong các ngày 12/3/2024 và ngày 15/3/2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 24/2024/HSST ngày 18 tháng 01 năm 2024 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 50/2024/QĐXXST-HS ngày 27/02/2024 và quyết định tạm ngừng phiên tòa số 19/2024/HSST-QĐ ngày 12/3/2024, đối với bị cáo:

NGUYỄN ĐĂNG Q, sinh ngày 25/3/1993 tại tỉnh Đồng Nai.

Trú tại: Ấp C, xã P, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai.

Nghề nghiệp: Không Trình độ học vấn: 10/12 Dân tộc: Mường Giới tính : Nam Tôn giáo : Công giáo Quốc tịch : Việt Nam Con ông Nguyễn Minh C và bà Nguyễn Thị H.

Gia đình có 04 chị em, bị cáo là con thứ tư.

Vợ là Trương Thị Hồng A, sinh năm 1994 (đã ly hôn); có 01 con.

Tiền án: Không Tiền sự: có 01 tiền sự;

- Ngày 23/9/2022, bị Trưởng Công an huyện T, tỉnh Đồng Nai xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy và sử dụng trái phép chất ma túy” theo Quyết định số 226/QĐ-XPHC. Chưa chấp hành xong hình thức xử phạt tiền.

Nhân thân:

- Ngày 07/01/2011, bị Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai xử phạt 10 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 01/2022/HSST. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt, đã nộp án phí hình sự sơ thẩm ngày 21/12/2022.

- Ngày 26/4/2012, bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Đ áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh theo Quyết định số 636/QĐ-UBND. Thời hạn thi hành là 24 tháng. Chấp hành xong ngày 22/10/2013.

Bị giam giữ ngày 17/8/2023. (Có mặt)

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Đặng Hoàng T, sinh năm 1994; Địa chỉ: 1 đường K, phường H, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.

* Người làm chứng: Ông Lê Văn B, sinh năm 1995 (Tất cả đều vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 21 giờ 30 phút, ngày 16/8/2023, Công an huyện T phối hợp Công an xã S tuần tra kiểm soát trên tuyến đường ĐT762 thuộc ấp T, xã S, huyện T, tỉnh Đồng Nai thì phát hiện Nguyễn Đăng Q điều khiển xe mô tô biển số 60B3- 625.1x có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. Qua kiểm tra phát hiện phía trước gác ba ga xe mô tô có một túi bóng, bên trong có 01 gói nylon hàn kín chứa chất màu trắng. Q khai nhận chất màu trắng trên là ma túy đá Q mua về để sử dụng. Lực lượng Công an đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Đăng Q, thu giữ vật chứng có liên quan.

Ngày 17/08/2023, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện T đã ra Quyết định trưng cầu giám định số ma túy thu giữ nêu trên. Tại bản kết luận giám định số 1841/KL-KTHS ngày 23/8/2023 của phòng K Công an tỉnh Đ, kết luận: “Mẫu chất màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 15,2666 gam, loại Methamphetamine”.

Ngày 24/8/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T đã khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can đối với Nguyễn Đăng Q về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, quá trình điều tra bị cáo khai nhận: Nguyễn Đăng Q có 01 tiền sự. Khoảng 17 giờ, ngày 16/8/2023, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên Q truy cập vào mạng xã hội Facebook (không nhớ là trang nào vì tìm kiếm nhiều trang) tìm kiếm người bán ma túy và gọi điện hỏi mua 6.000.000 đồng ma túy đá thì người này đồng ý và hẹn Q đến khu vực gần ngã tư T thuộc xã C, huyện T để giao, nhận ma túy. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, Q điều khiển xe mô tô, biển số 60B3- 625.1x đến điểm hẹn gặp và đưa tiền cho một người thanh niên (không biết tên, địa chỉ), người này chỉ cho Q vị trí cất giấu ma túy ở gần đó, Q đi đến vị trí người bán chỉ lấy ma túy được đựng trong gói nylon hàn kín. Sau đó, Q treo túi bóng đựng ma túy trên ở phía trước gác ba ga xe mô tô 60B3-625.1x và điều khiển xe đi về nhà, khi đi đến đoạn đường ĐT 762 thuộc ấp T, xã S, huyện T, tỉnh Đồng Nai thì bị lực lượng Công an tuần tra phát hiện bắt quả tang.

Tại bản cáo trạng số 30/CT-VKS-TB ngày 11/01/2024, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom để xét xử đối với bị cáo Nguyễn Đăng Q về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện VKSND huyện Trảng Bom giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đăng Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS: Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Đăng Q từ 06 năm đến 07 năm tù.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Đề nghị;

- Đối với 01 phong bì niêm phong ma túy sau giám định số 1841/KL-KTHS ngày 23/8/2023 của Phòng K (PC09) Công an tỉnh Đ; 01 cân tiểu ly, màu bạc, không rõ nhãn hiệu đề nghị Tòa tuyên tịch thu tiêu hủy;

- Đối với 01 điện thoại di động ký hiệu chữ VERTU, có gắn sim (đã qua sử dụng) sử dụng vào việc phạm tội đề nghị Tòa tuyên tịch thu sung công;

- Đối với số tiền 150.000 đồng, quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của Nguyễn Đăng Q, không liên quan đến việc phạm tội nên Cơ quan điều tra trả lại cho Q.

- Đối với xe mô tô biển số 60B3-625.1x, số máy KC26E1241000, số khung RLHKC2605JY001747. Kết quả tra cứu do Đặng Hoàng T đứng tên chủ sở hữu. Qua xác minh, ông T xác nhận đã bán xe vào năm 2020 cho một người khác ở thành phố T nên không còn quản lý, sử dụng xe nữa. Ngày 16/8/2023, Q mượn xe mô tô 60B3-625.1x của bà Đoàn Thị Kim Q1 (hiện không còn ở địa phương) để đi công việc, sau đó sử dụng làm phương tiện để phạm tội. Do đó Cơ quan điều tra tách ra, tiếp tục làm rõ xử lý sau.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện. Hành vi, quyết định tố tụng, người tiến hành tố tụng đều đảm bảo đúng pháp luật.

[2] Bị cáo Nguyễn Đăng Q là đối tượng sử dụng ma túy, có nhân thân xấu và 01 tiền sự. Vào khoảng 21 giờ 30 phút, ngày 16/8/2023, tại đoạn đường ĐT 762 thuộc ấp T, xã S, huyện T, tỉnh Đồng Nai thì bị lực lượng Công an kiểm tra phát hiện phía trước gác ba ga xe mô tô, biển số 60B3-625.1x do bị cáo Q điều khiển có một túi bóng có đựng 01 gói nylon hàn kín, bên trong có chứa chất màu trắng. Bị cáo khai chất màu trắng là ma túy do bị cáo mua của một người thanh niên (không biết tên, địa chỉ) để sử dụng. Kết luận giám định thể hiện: 01 gói nylon chứa chất màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 15,2666 gam, loại Methamphetamine. Do đó, bị cáo Nguyễn Đăng Q đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến chế độ độc quyền quản lý về các chất ma túy của Nhà nước, trực tiếp là hoạt động tàng trữ trái phép và xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Pháp luật quy định nghiêm cấm hành vi tàng trữ ma túy dưới mọi hình thức nhưng vì mục đích có chất ma túy để sử dụng, bị cáo đã bất chấp sự trừng phạt của pháp luật, cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Bản thân đã từng bị đưa đi cai nghiện, xử phạt hành chính và bị đưa ra xét xử nhưng không lấy đó làm bài học mà tiếp tục phạm tội đã thể hiện bị cáo là đối tượng coi thường pháp luật, khó cải tạo, giáo dục. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần có mức hình phạt thật nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để trừng phạt, răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Khi lượng hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét: Bị cáo là người có nhân thân xấu và có 01 tiền sự. Tuy nhiên, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên Hội đồng xét xử xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

[5] Về xử lý vật chứng:

[5.1] Đối với 01 phong bì niêm phong ma túy sau giám định số 1841/KL- KTHS ngày 23/8/2023 của Phòng K (PC09) - Công an tỉnh Đ; 01 cân tiểu ly, màu bạc, không rõ nhãn hiệu là vật chứng không có giá trị nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định;

[5.2] Đối với 01 điện thoại di động màu đen, bên ngoài ghi chữ VERTU, có số imei 355181218629037 (đã qua sử dụng), kèm theo sim có số seri 89840 48000 01066 2552 sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước;

[5.3] Đối với số tiền 150.000 đồng, quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của bị cáo Q, không liên quan đến việc phạm tội nên Cơ quan điều tra trả lại cho bị cáo (BL 79) là đúng quy định pháp luật;

[5.4] Đối với xe mô tô biển số 60B3-625.1x, số máy KC26E1241000, số khung RLHKC2605JY001747, do Đặng Hoàng T đứng tên chủ sở hữu. Qua xác minh, ông T xác nhận đã bán xe vào năm 2020 cho một người ở thành phố T nên không còn quản lý, sử dụng xe, không có ý kiến gì về việc xử lý xe. Bị cáo khai, ngày 16/8/2023 mượn xe mô tô 60B3-625.1x của bà Đoàn Thị Kim Q1 (hiện không còn ở địa phương) để đi công việc, sau đó sử dụng làm phương tiện để phạm tội. Do đó Cơ quan điều tra tách ra, tiếp tục làm rõ xử lý sau là phù hợp.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[7] Về các vấn đề khác: Đối với người đã bán ma túy cho bị cáo, do không xác định được nhân thân, lai lịch cụ thể nên Cơ quan điều tra Công an huyện T tiếp tục xác minh, làm rõ, có cơ sở xử lý sau.

[8] Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom về tội danh, hình phạt, xử lý vật chứng và án phí phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đăng Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Đăng Q 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17/8/2023.

- Căn cứ điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

+ Tịch thu và tiêu hủy toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định, được đựng trong 01 phong bì đóng dấu niêm phong số 1841/KL-KTHS ngày 23/8/2023 của Phòng K (PC09) - Công an tỉnh Đ và 01 cân tiểu ly, màu bạc, không rõ nhãn hiệu (đã qua sử dụng).

+ Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động màu đen, bên ngoài ghi chữ VERTU, có số Imei 355181218629037 (đã qua sử dụng), kèm theo sim có số seri 89840 48000 01066 2552.

(Tất cả vật chứng trên được giao nhận theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 16/01/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai).

- Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Nguyễn Đăng Q phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Báo cho bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

3
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 65/2024/HS-ST

Số hiệu:65/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trảng Bom - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về