Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 65/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V, TỈNH H

BẢN ÁN 65/2023/HS-ST NGÀY 22/06/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22-6-2023, tại Hội trường thôn A, xã N, huyện V, tỉnh H. Tòa án nhân dân huyện V xét xử sơ thẩm công khai, lưu động vụ án hình sự thụ lý số: 57/2023/TLST-HS ngày 05-5-2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 53/2023/QĐXXST-HS ngày 08-6-2023 đối với bị cáo:

Quàng Văn Đ, sinh năm 1991; Tên gọi khác: Không; Nơi sinh: xã C1, huyện M, tỉnh S; Nơi đăng ký HKTT: Bản H3, xã C1, huyện M, tỉnh S; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 01/12; Con ông Quàng Văn H4 (đã chết) và bà Lường Thị X (S1), sinh năm 1944; Vợ là: Lò Thị L, sinh năm 1992; Có 01 người con, sinh năm 2009; Tiền án, tiền sự: Chưa có; Bị tạm giữ ngày 16-11-2022 và tạm giam ngày 19- 11-2022; Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện V, tỉnh H. Có mặt

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Thế A1 – Trợ giúp viên pháp lý, Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh H. Có mặt.

- Người làm chứng: Anh Chu Tiến N1, sinh năm 1987; Địa chỉ: thôn D, xã V1, huyện V, tỉnh H. Vắng mặt 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 11 giờ 20 phút ngày 16-11-2022, tại khu vực đường đôi thôn 11, xã N, huyện V, tổ công tác của Công an xã V1, huyện V phát hiện, bắt quả tang Quàng Văn Đ, sinh năm: 1991, HKTT: Bản H3, xã C1, huyện M, tỉnh S, đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy trên người. Thu tại lòng bàn tay trái của Đ 01 vỏ gói mỳ tôm nhãn hiệu Kokomi, đựng 06 gói giấy màu trắng có dòng kẻ màu xanh, bên trong các gói giấy đều chứa chất màu trằng dạng cục và bột. Số vật chứng này được niêm phong trong phong bì kí hiệu M1. Cùng ngày, Công an xã V1 bàn Quàng Văn Đ cùng toàn bộ hồ sơ và vật chứng cho Cơ quan CSĐT Công an huyện V.

Cơ quan CSĐT Công an huyện V đã đưa Quàng Văn Đ đến Trung tâm y tế huyện V để xét nghiệm chất ma túy trong cơ thể; tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Đ tại thôn E, xã N và ban hành Quyết định trưng cầu giám định ma túy đối với chất thu giữ được của Đ trong phong bì kí hiệu M1. Kết quả xét nghiệm, xác định trong cơ thể của Quàng Văn Đ dương tính với chất ma túy (MOP). Kết quả khám xét, không thu giữa được đồ vật, tài liệu gì. Tại Bản kết luận giám định số: 429/KL-KTHS (MT) ngày 19-11-2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh H kết luận: mẫu chất màu trắng dạng cục và bột bên trong niêm phong kí hiệu M1 có tổng khối lượng là 0,348g, là ma túy, loại Heroine.

Quàng Văn Đ khai nhận: Bản thân thường xuyên sử dụng chất ma túy loại Heroin. Khoảng 11 giờ ngày 16-11-2022, Đ đi bộ từ nhà trọ ở thôn E, xã N, đến khu vực đường đôi thôn G, xã N, mua 300.000đ ma túy loại Heroin của một người nam giới không rõ nhân thân, lai lịch. Người này đưa cho Đ 06 gói giấy, bên trong có chất ma túy loại Heroin, Đ cất tất cả vào vỏ gói mì tôm Kokomi và cầm ở bàn tay trái để mang về phòng trọ sử dụng. Trên đường về thì bị Công an xã V1 phát hiện, bắt quả tang. Trước đó, vào ngày 13-11-2022, tại phòng trọ của mình ở thôn E, xã N, Đ đã thực hiện hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Ngày 12-4-2023, Công an huyện V ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Quàng Văn Đ về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Đối với người đối tượng đã bán ma túy cho Đ vào ngày 16-11-2022, do không xác định được nhân thân, lai lịch nên không có căn cứ để điều tra, xử lý.

Cáo trạng số: 63/CT-VKSVG ngày 04-5-2023 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh H truy tố bị cáo Quàng Văn Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo thành khẩn khai báo, diễn biến động cơ, mục đích và hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng đã truy tố.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bị cáo Quàng Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm a khoản 1 Điều 46; điểm a,c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a,c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự. Xử phạt bị cáo Quàng Văn Đ từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 16-11-2022. Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp, tịch thu cho tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong hoàn mẫu vật gửi giám định số 429/KL-KTHS(MT) có dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh H, bên trong có 0,318g ma túy, loại Heroine; 06 mảnh giấy màu trắng gói ma túy, 01 phong bì niêm phong mẫu vật gửi giám định và 01 vỏ mì tôm có chữ KOKOMI. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Miễn án phí Hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

- Người bào chữa cho bị cáo, có quan điểm: Viện kiểm sát truy tố các bị cáo là có căn cứ, hành vi của bị cáo đã rõ ràng; đồng ý với lời luận tội của Kiểm sát viên. Đề nghị xử phạt bị cáo với mức án thấp nhất như đề nghị của Kiểm sát viên.

Bị cáo đồng ý với lời bào chữa và không có ý kiến bổ sung, tranh luận gì.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình, ăn năn, hối cải và xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người bào chữa xuất trình tài liệu, chứng cứ phù hợp với quy định của pháp luật và không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa, vắng mặt người làm chứng. Qua xem xét sự vắng mặt của họ, Tòa án đã triệu tập, tống đạt hợp lệ nên xét thấy việc vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc xét xử và tại phiên tòa Kiểm sát viên, bị cáo không yêu cầu hoãn phiên tòa. Sau khi thảo luận tại phòng xử án, căn cứ Điều 293 của Bộ luật Tố tụng Hình sự, Hội đồng xét xử thống nhất vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[3]. Lời khai nhân tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với nội dung bản cáo trạng, được chứng minh bằng các chứng cứ, tài liệu được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 11 giờ 20 phút ngày 16-11-2022, tại khu vực đường đôi thuộc thôn G, xã N, huyện V, tỉnh H; Tổ công tác Công an xã V1 huyện V, bắt quả tang Quàng Văn Đ đang có hành vi cất giấu trái phép trên người 06 gói ma túy, loại Heroin, có tổng khối lượng là 0,348g. Mục đích để sử dụng.

Với hành vi nêu trên của Quàng Văn Đ đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện V đã truy tố Quàng Văn Đ theo tội danh và điều luật thể hiện trong Cáo trạng số 63/CT-VKSVG ngày 04-5-2023 là có căn cứ, đúng pháp luật.

Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo thấy rằng: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, bị cáo hiểu được tác hại của ma túy đối với sức khỏe con người, hiểu được tệ nạn ma túy đang là mối quan tâm nhức nhối của toàn xã hội nhưng bị cáo vẫn cố ý tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm mục đích để sử dụng nên bị cáo phải chịu mức án tương xướng với hành vi phạm tội của mình.

[4]. Đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy:

- Về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, là đối tượng nghiện chất ma túy.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, cần cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, với đặc điểm nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo như đã phân tích ở trên thấy cần thiết phải cho cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo có thời gian học tập, cải tạo thành công dân có ích cho gia đình, xã hội.

[5]. Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, do đó bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo thuộc người dân tộc thiểu số, cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6]. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a,c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a,c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự, vật chứng được xử lý như sau:

- Cơ quan Công an đã thu giữ của Quàng Văn Đ 0,348g ma túy, loại Heroin, sau khi gửi đi giám định trọng lượng còn hoàn lại: 0,318g ma túy, loại Heroin là vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

- 06 mảnh giấy màu trắng gói ma túy, 01 phong bì niêm phong mẫu vật gửi giám định và 01 vỏ mì tôm có chữ KOKOMI là công cụ dùng vào việc phạm tội và là vật không có giá trị nên tịch thu tiêu hủy.

(Tình trạng, số lượng, chủng loại, đặc điểm vật chứng như Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 19-5-2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V với Chi cục Thi hành án dân sự huyện V, tỉnh H)

[7]. Về án phí: Gia đình bị cáo thuộc người dân tộc thiểu số, cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án và Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự nên Hội đồng xét xử miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

[8]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Quàng Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

Xử phạt: Quàng Văn Đ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù; Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 16-11-2022.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a,c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a,c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong hoàn mẫu vật gửi giám định số 429/KL-KTHS(MT) có dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh H, bên trong có 0,318g ma túy, loại Heroine; 06 mảnh giấy màu trắng gói ma túy, 01 phong bì niêm phong mẫu vật gửi giám định và 01 vỏ mì tôm có chữ KOKOMI.

(Tình trạng, số lượng, chủng loại, đặc điểm vật chứng như Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 19-5-2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V với Chi cục Thi hành án dân sự huyện V, tỉnh H)

3. Về án phí: Miễn án phí Hình sự sơ thẩm cho Quàng Văn Đ.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 22-6-2023).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

16
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 65/2023/HS-ST

Số hiệu:65/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Lục - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về