Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 65/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TU, TỈNH LC

BẢN ÁN 65/2022/HS-ST NGÀY 29/06/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 29 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện TU, tỉnh LC xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 62/2022/TLST- HS ngày 13 tháng 5 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 62/2022/QĐXXST- HS ngày 15 tháng 6 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Thàm Văn T; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 15/3/1984 tại huyện TU, tỉnh LC;

Nơi cư trú: Bản NE, xã MK, huyện TU, tỉnh LC; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 04/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Thàm Văn N, sinh năm 1959 và bà: Lý Thị P, sinh năm 1959; Bị cáo có vợ là Lò Thị T, sinh năm 1985 và có 03 con; Tiền án: Không.

Tiền sự: Bị cáo có 01 tiền sự: Ngày 25/01/2022, Thàm Văn T bị Công an huyện TU ra quyết định xử phạt hành chính 2.000.000 đồng về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Nhân thân: Ngày 25/01/2008, Thàm Văn T bị Tòa án nhân dân huyện TU xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, hiện đã được xóa án tích.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ hồi 18 giờ 00 phút ngày 09/02/2022, tạm giam từ ngày 18/02/2022, ngày 20/4/2022 được thay thế biện pháp ngăn chặn tạm giam bằng Bảo lĩnh. (Có mặt).

2. Họ và tên: Lò Văn B; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 16/02/1996 tại huyện TU, tỉnh LC;

Nơi cư trú: Bản NE, xã MK, huyện TU, tỉnh LC; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ học vấn: 08/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lò Văn P, sinh năm 1973 và bà: Hà Thị L, sinh năm 1974; Bị cáo có vợ là Lò Thị X, sinh năm 1997 và có 02 con.

Tiền án: Có 01 tiền án, cụ thể: Ngày 09/6/2020, Lò Văn B bị Tòa án nhân dân huyện TU xử phạt 16 tháng tù về tội: “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, hiện chưa được xóa án tích.

Tiền sự: Bị cáo có 01 tiền sự: Ngày 25/01/2022, Lò Văn B bị Công an huyện TU ra quyết định xử phạt hành chính 2.000.000 đồng về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ hồi 18 giờ 00 phút ngày 09/02/2022, tạm giam từ ngày 18/02/2022, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện TU, tỉnh LC. (Có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Lò Văn H, sinh năm 1991, địa chỉ: Bản NE, xã MK, huyện TU, tỉnh LC. (Vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Thàm Văn T và Lò Văn B là những người nghiện chất ma túy. Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 09/02/2022, Thàm Văn T mượn xe mô tô của Lò Văn H, sinh năm 1991, trú tại bản NE, xã MK, huyện TU, tỉnh LC mục đích đi lên bản Noong Thăng, xã Phúc Than tìm mua Heroine để sử dụng nhưng không nói cho anh H biết. Mượn được xe mô tô, Thàm Văn T đi lên bản Noong Thăng, xã Phúc Than. Trên đường đi, Thàm Văn T gặp Lò Văn B, trú tại bản NE, xã MK, huyện TU. Qua nói chuyện, biết Thàm Văn T đang có ý định đi tìm mua Heroine nên Bỉnh xin đi cùng, mục đích cũng tìm mua Heroine để sử dụng. Tại bản Noong Thăng, Thàm Văn T và Lò Văn B gặp và hỏi mua Heroine của một người đàn ông dân tộc Mông không rõ lai lịch. Thàm Văn T và Lò Văn B mỗi người đưa cho người đàn ông đó 50.000 đồng. Người đàn ông nhận tổng số tiền 100.000 đồng rồi đưa cho Thăm và Bỉnh 01 gói Heroine, và bảo Thăm và Bỉnh tự chia nhau. Mua được Heroine, Thàm Văn T và Lò Văn B không chia mà cùng nhau đi vào bụi tre ven đường thuộc bản Noong Thăng cấu ra một ít cùng nhau sử dụng. Số Heroine còn lại, Thàm Văn T và Lò Văn B thống nhất đưa cho Thàm Văn T cất giấu vào trong túi áo khoác đang mặc trên người, mục đích mang về để cùng nhau dụng tiếp. Đến 13 giờ 50 phút cùng ngày, Thàm Văn T và Lò Văn B điều khiển xe mô tô về đến bản Ngã Ba, xã MK, huyện TU thì bị Công an huyện TU phát hiện, bắt quả tang cùng vật chứng là 01 gói Heroine được gói bằng mảnh ni lon màu xanh và 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA, màu sơn đỏ đen, biển kiểm soát: 25T1-010.20.

Ngày 09/02/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện TU đã tiến hành trưng cầu người giám định Tư pháp để mở niêm phong, xác định khối lượng, trích mẫu chất bột, màu trắng thu giữ của Thàm Văn T, Lò Văn B gửi giám định. Tại bản Kết luận giám định tư pháp số 35/LKGĐ ngày 09/02/2022 của người giám định theo vụ việc kết luận: Số chất bột, màu trắng thu giữ của Thàm Văn T cùng đồng phạm có khối lượng là: 0,12 gam. Tại bản Kết luận giám định số 189/GĐ-KTHS ngày 14/02/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh LC kết luận: 01 (một) mẫu chất bột, màu trắng gửi giám định là ma túy, loại Heroine.

Ngày 16/02/2022, Thàm Văn T và Lò Văn B bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện TU khởi tố về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Đối với xe mô tô nhãn hiệu HONDA, màu sơn đỏ đen, biển kiểm soát:

25T1-010.20 thu giữ khi bắt quả tang Thàm Văn T, Lò Văn B. Quá trình điều tra xác định đây là tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của anh Lò Văn H. Khi cho Thàm Văn T mượn xe, anh Học không biết việc Thăm sử dụng xe làm phương tiện đi mua Heroine về sử dụng nên ngày 15/02/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện TU đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe mô tô trên cho anh Lò Văn Học.

Vật chứng còn lại của vụ án gồm: 0,05 gam Heroine; 01 mảnh nilon màu xanh; 01 vỏ bì niêm phong ban đầu, hiện đang được lưu giữ tại Kho vật chứng Chi cục Thi hành án dân sự huyện TU, tỉnh LC.

Bản cáo trạng số 51/CT-VKS ngày 12/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện TU tỉnh LC truy tố các bị cáo Thàm Văn T, Lò Văn B về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện TU, tỉnh LC giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo về tội danh và điều khoản áp dụng, đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 38, Điều 58 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Thàm Văn T từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù. Khấu trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam cho bị cáo. Thời hạn thi hành hình phạt tù còn lại tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 38, Điều 58 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lò Văn B từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù. Thời hạn thi hành hình phạt tính từ ngày 09/02/2022.

Miễn áp dụng các hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự đối với các bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Đề nghị tịch thu tiêu hủy 0,05 gam Heroine và 01 mảnh nilon màu xanh, 01 vỏ bì niêm phong ban đầu.

Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa các bị cáo Thàm Văn T, Lò Văn B khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát truy tố. Các bị cáo không tranh luận với luận tội của Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng của các bị cáo trước khi Hội đồng xét xử nghị án: Các bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện TU, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện TU, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình Bỉnh, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tranh tụng tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Tại phiên tòa, các bị cáo Thàm Văn T, Lò Văn B đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với bản Kết luận điều tra, bản Cáo trạng đã truy tố và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, như vậy có đủ cơ sở khẳng định: Trưa ngày 09/02/2022, tại bản Noong Thăng, xã Phúc Than, huyện TU, tỉnh LC, Thàm Văn T và Lò Văn B cùng nhau góp mỗi người 50.000 đồng được tổng số 100.000 đồng mua 01 gói Heroine của một người đàn ông không quen biết, mục đích để sử dụng. Mua được Heroine, Thàm Văn T và Lò Văn B cấu ra một ít sử dụng, số Heroine còn lại, Thàm Văn T và Lò Văn B thống nhất đưa cho Thàm Văn T cất giấu vào trong túi áo khoác đang mặc trên người, mục đích mang về để cùng nhau dụng tiếp. Đến 13 giờ 50 phút cùng ngày, Thàm Văn T và Lò Văn B điều khiển xe mô tô về đến bản Ngã Ba, xã MK, huyện TU thì bị Công an huyện TU phát hiện, bắt quả tang cùng vật chứng là 01 gói Heroine có khối lượng 0,12 gam. Ngày 16/02/2022, Thàm Văn T và Lò Văn B bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện TU khởi tố về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Các bị cáo Thàm Văn T, Lò Văn B là những người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Hành vi tàng trữ trái phép 0,12 gam Heroine, mục đích để cùng nhau sử dụng của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Như vậy, nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện TU truy tố các bị cáo về tội danh, điều khoản áp dụng là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội:

Vụ án có tính chất nghiêm trọng. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý Nhà nước ta đối với các chất ma túy và làm ảnh hưởng tới trật tự, trị an, an toàn xã hội tại địa phương. Xét về vai trò đồng phạm trong vụ án thấy rằng, đây là vụ án có tính chất đồng phạm giản đơn, các bị cáo cùng thống nhất ý chí, mục đích tìm mua ma túy để cùng nhau sử dụng. Bị cáo Thàm Văn T, Lò Văn B đều là người thực hiện hành vi phạm tội nên phải chịu trách nhiệm hình sự ngang nhau đối với hành vi phạm tội của mình.

[4] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Các bị cáo Thàm Văn T, Lò Văn B đều sinh ra tại huyện TU. Các bị cáo còn trẻ, nhưng đã không tu dưỡng, rèn luyện bản thân, chịu khó làm ăn, lao động sản xuất mà mắc tệ nạn xã hội nghiện chất ma túy. Các bị cáo có nhân thân xấu, đã từng bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Đối với bị cáo Thàm Văn T, năm 2008 đã bị Tòa án nhân dân huyện TU xử phạt 18 tháng tù về tội: Trộm cắp tài sản, hiện đã được xóa án tích. Đối với bị cáo Lò Văn B, năm 2020 đã bị Tòa án nhân dân huyện TU xử phạt 16 tháng tù về tội: “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, hiện chưa được xóa án tích. Các bị cáo đã không lấy những bản án trước đó làm bài học cho bản thân mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội cho thấy sự coi thường pháp luật của các bị cáo.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo Thàm Văn T, Lò Văn B đã thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình; các bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo Quyết định số 612/QĐ-UBDT ngày 16/9/2021 của Bộ trưởng, chủ nhiệm Ủy ban dân tộc đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự đối với các bị cáo.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Lò Văn B thực hiện hành vi phạm tội trong thời gian chưa được xóa án tích nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự. Bị cáo Thàm Văn T không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Căn cứ vào tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo, cần thiết phải có mức án tương xứng, cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục cho các bị cáo trở thành công dân tốt và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét điều kiện, hoàn cảnh kinh tế của các bị cáo khó khăn, bản thân bị cáo Bỉnh nghề nghiệp trồng trọt, bị cáo Thăm là lao động tự do thu nhập không ổn định. Các bị cáo không đảm nhiệm chức vụ và không có tài sản gì đáng kể, do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng các hình phạt bổ sung là hình phạt tiền, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, tịch thu một phần hoặc tài bộ tài sản theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự đối với các bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Đối với vật chứng còn lại của vụ án là 0,05 gam Heroine là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu để tiêu hủy. Đối với 01 mảnh nilon màu xanh; 01vỏ bì niêm phong ban đầu là những vật chứng không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu để tiêu hủy.

Đối với xe mô tô nhãn hiệu HONDA, màu sơn đỏ đen, biển kiểm soát:

25T1-010.20 thu giữ khi bắt quả tang Thàm Văn T, Lò Văn B. Quá trình điều tra xác định đây là tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của anh Lò Văn Học. Khi cho Thăm mượn xe, anh Học không biết việc Thăm sử dụng xe làm phương tiện đi mua Heroine về sử dụng nên ngày 15/02/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện TU đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe mô tô trên cho anh Lò Văn Học là đúng quy định của pháp luật.

[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo Quyết định số 612/QĐ-UBDT ngày 16/9/2021 của Bộ trưởng, chủ nhiệm Ủy ban dân tộc; tại phiên tòa các bị cáo xin miễn án phí. Do đó, Hội đồng xét xử miễn cho các bị cáo Thàm Văn T, Lò Văn B mỗi bị cáo 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[8] Như vậy, đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện TU về hình phạt chính, hình phạt bổ sung, xử lý vật chứng đối với các bị cáo là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ.

[9] Về biện pháp ngăn chặn: Căn cứ Điều 329 của Bộ luật tố tụng hình sự tiếp tục áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với các bị cáo Lò Văn B để đảm bảo thi hành án. Căn cứ Điều 121 của Bộ luật tố tụng hình sự tiếp tục áp dụng biện pháp ngăn chặn Bảo lĩnh đối với bị cáo Thàm Văn T để đảm bảo thi hành án.

[10] Những vấn đề liên quan: Về nguồn gốc ma túy, các bị cáo khai mua của những người không rõ nhân thân, lai lịch. Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra, xử lý, Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với anh Lò Văn Học đã cho Thàm Văn T mượn chiếc xe mô tô biển kiểm soát biển kiểm soát 25T1-010.20. Quá trình điều tra xác định, anh Học không biết việc Thăm dùng xe mô tô để làm phương tiện đi mua Heroine sử dụng nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện TU không đề cập xử lý với anh Lò Văn Học là có căn cứ.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 38, Điều 58 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Thàm Văn T;

- Căn cứ điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 38, Điều 58 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Lò Văn B;

- Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106; Điều 135; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12; Điều 15 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án đối với các bị cáo.

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Thàm Văn T , Lò Văn B phạm tội:

“Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

- Xử phạt bị cáo Thàm Văn T 01 (một) năm 08 (tám) tháng tù. Khấu trừ cho bị cáo 70 (bảy mươi) ngày tạm giữ, tạm giam (từ ngày 09/02/2022 đến ngày 20/4/2022). Thời hạn thi hành hình phạt tù còn lại là 01 (một) năm 05 (năm) tháng 20 (hai mươi) ngày tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

- Xử phạt bị cáo Lò Văn B 02 (hai) năm tù. Thời hạn thi hành hình phạt tính từ ngày 09/02/2022.

- Miễn áp dụng các hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

3. Về vật chứng: Tuyên tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong bên trong đựng 0,05 gam Heroine; 01 phong bì Công an huyện TU bên trong đựng 01 mảnh nilon màu xanh, 01 vỏ bì niêm phong ban đầu.

(Tình trạng, đặc điểm vật chứng theo như biên bản giao, nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 20 tháng 5 năm 2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện TU và Chi cục Thi hành án dân sự huyện TU, tỉnh LC).

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Miễn cho các bị cáo Thàm Văn T, Lò Văn B mỗi bị cáo 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

114
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 65/2022/HS-ST

Số hiệu:65/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Than Uyên - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về