Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 64/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N – TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 64/2022/HS-ST NGÀY 14/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dânhuyện N, tỉnh Ninh Bình mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai, trực tuyến vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 62/2022/TLST- HS ngày 16 tháng 8 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 67/2022/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo: Lê Văn T, sinh năm 1982 tại huyện N, tỉnh Ninh Bình. Nơi cư trú:Thôn C, xã Đ,huyện N, tỉnh Ninh Bình; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Công giáo; Giới tính: Nam; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 9/12; Con ông: Lê Văn Q(đã chết); Con bà: Đinh Thị B(đã chết); Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không. Về nhân thân: Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 74 ngày 01/11/2016 của Công an thành phố Ninh Bình xử phạt Lê Văn T cảnh cáo về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Lê Văn T đã chấp hành xong.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 10/6/2022, đến ngày 19/6/2022 chuyển tạm giam. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình. (có mặt).

- Những người làm chứng: Anh Lê Văn Th sinh năm 1987; Anh Bùi Thanh L sinh năm 1983; Chị Đào Thị L sinh năm 1992(tất cả đều vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Văn T là người nghiện ma túy, loại Heroine. Khoảng 17 giờ ngày 10/6/2022 Toản đi nhờ xe của người đi đường không quen biết từ nhà ở khu vực thôn C, xã Đ,huyện N đi đến xã Gi, huyện Gi, tỉnh Ninh Bình để tìm mua Heroine về sử dụng cho bản thân. Khi đi đến khu vực đường đê thuộc địa phận thôn Ngô Đồng, xã Gi, huyện Gi, tỉnh Ninh Bình, Txuống xe đi bộ một đoạn thì nhìn thấy một người nam giới (T không biết tên, tuổi, địa chỉ) đang đứng tại đây trông giống người nghiện ma túy. T đi lại gần người nam giới và hỏi:“Anh có bán ma túy không, bán cho em ba trăm nghìn”, mục đích T muốn hỏi mua của người nam giới này 01 gói Heroine với giá 300.000 đồng, người nam giới hiểu ý của T nên đồng ý nói: “Có, đưa tiền đây”. Lê Văn T lấy ra số tiền 300.000 đồng đưa cho người nam giới, người này cầm tiền rồi đưa cho Toản 01 gói nhỏ được gói ngoài bằng giấy bạc màu trắng, bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng. Lê Văn T mở ra kiểm tra xác định đúng là Heroine nên gói lại và cầm trên tay trái sau đó Toản đi nhờ xe của người đi đường không quen biết để ra về. Khi đi về đến khu vực thôn Th 1, xã Đ,huyện N thì Toản xuống xe đi bộ để tìm nơi vắng người nhằm sử dụng ma túy.

Khoảng 17 giờ 45 phút cùng ngày, khi Lê Văn T đang đi bộ trên đường thôn Thần Lũy 1, xã Đ,huyện N đã gặp Tổ công tác Công an xã Đ,huyện N phối hợp với Công an xã Gia Sơn,huyện N đang làm nhiệm vụ tuần tra. Lúc này Tổ công tác thấy T có biểu hiện nghi vấn nên đã yêu cầu Toản đứng lại để kiểm tra. Biết không thể che giấu về hành vi cất giấu trái phép chất ma túy trên người nên Lê Văn T đã tự giác giao nộp 01 gói nhỏ được gói ngoài bằng giấy bạc màu trắng từ trên tay trái của mình cho Tổ công tác và khai nhận đó là 01 gói ma túy, loại Heroine của V vừa mua về nhằm mục đích sử dụng. Tại chỗ, Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ của Lê Văn T: 01 gói nhỏ được gói ngoài bằng giấy bạc màu trắng, bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng. Ngoài ra Tổ công tác không thu giữ đồ vật, tài liệu gì khác của Toản. Cùng ngày Công an xã Đ,huyện N đã chuyển toàn bộ hồ sơ, tài liệu vật chứng có liên quan đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công anhuyện N để giải quyết theo thẩm quyền.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công anhuyện N đã tiến hành cân xác định khối lượng chất bột dạng cục màu trắng bên trong 01 gói nhỏ được gói ngoài bằng giấy bạc màu trắng thu giữ của Lê Văn T có khối lượng 0,31gam (ký hiệu M) để gửi trưng cầu giám định về khối lượng và loại chất ma túy.

Tại bản kết luận giám định số 496/KL-KTHS-MT ngày 18/6/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình kết luận:

“ - Mẫu chất bột dạng cục màu trắng gửi giám định ký hiệu M có khối lượng 0,3099 gam là ma túy, loại Heroine.

Heroine là chất ma túy thuộc bảng Danh mục I, số thứ tự 9; Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ”.

Hoàn lại đối tượng giám định gồm: Chất bột màu trắng còn lại trong mẫu gửi giám định ký hiệu M có khối lượng là 0,2524 gam là ma túy, loại Heroine và toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong. Tất cả được niêm phong trong phong bì “Mẫu vật hoàn trả sau giám định” có ghi số 496/KL-KTHS-MT, cùng thông tin về vụ việc và vật chứng.

Tại bản cáo trạng số 67/CT-VKSNQ ngày 15/8/2022 của Viện kiểm sát nhân dânhuyện N đã truy tố bị cáo Lê Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dânhuyện N đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sáthuyện N tại phiên tòa sau khi phân tích đánh giá tính chất vụ án, xem xét hậu quả do hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lê Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

* Đề nghị áp dụng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự đề nghị: xử phạt bị cáo từ 21 tháng tù đến 24 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 10/6/2022.

- Hình phạt bổ sung: không áp dụng hình phạt bổ sung với bị cáo.

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy: Đối với chất bột màu trắng còn lại trong mẫu gửi giám định ký hiệu M có khối lượng là 0,2524 gam là ma túy, loại Heroine và toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong. Tất cả được niêm phong trong phong bì “Mẫu vật hoàn trả sau giám định” có ghi số 496/KL-KTHS-MT, cùng thông tin về vụ việc và vật chứng.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N.

Lời nói sau cùng của bị cáo biết lỗi về hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công anhuyện N, Viện kiểm sát nhân dânhuyện N, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, lời khai người làm chứng; Kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu có liên quan khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Đã đủ cơ sở pháp lý khẳng định:

Khoảng 17 giờ 45 phút ngày 10/6/2022, tại khu vực đường thôn Thần Lũy 1, xã Đ,huyện N, tỉnh Ninh Bình. Tổ công tác Công an xã Đ,huyện N phối hợp với Công an xã Gia Sơn,huyện N phát hiện và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Lê Văn T có hành vi cất giấu trái phép 01 gói ma túy, loại Heroine có khối lượng 0,3099 gam nhằm mục đích để sử dụng.

Như vậy, hành vi nêu trên của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý ”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Điều 249: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

………………………………………….

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.

……………………………………………..

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dânhuyện N đã truy tố bị cáo với tội danh và điều luật đã viện dẫn như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật cần chấp nhận.

[3]. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, tính chất vụ án là nghiêm trọng, bởi lẽ: Ma túy là một trong những đại họa mà toàn nhân loại phải đối mặt và là vấn đề đang còn nhức nhối, ám ảnh của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Nhận thức sâu sắc về tác hại của ma túy nên Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, biện pháp nhằm tăng cường công tác đấu tranh phòng, chống ma túy cũng như quyết tâm loại trừ các tệ nạn về ma túy ra khỏi đời sống xã hội. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân khác nhau nên các tội phạm về ma túy vẫn chưa giảm mà lại có chiều hướng gia tăng và diễn biến ngày càng phức tạp hơn. Để góp phần đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tệ nạn ma túy ra khỏi đời sống xã hội ngoài công tác tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng thì các cơ quan tiến hành tố tụng ở địa phương như: Công an, Viện kiểm sát và Tòa án đã tăng cường, phối hợp chặt chẽ công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm và tệ nạn ma túy, kiên quyết triệt xóa các tụ điểm phức tạp, không để gây bức xúc trong nhân dân. Vận động nhân dân phát hiện tố giác tội phạm về ma túy nhằm góp phần tích cực vào công cuộc đấu tranh, phòng chống tội phạm. Từ đó nêu cao tinh thần cảnh giác, phòng ngừa tội phạm trên địa bàn dân cư để từng bước đẩy lùi và loại trừ tội phạm nguy hiểm này. Do đó cần xử phạt bị cáo nghiêm minh trước pháp luật bằng bản án nghiêm khắc để cải tạo, giáo dục chính bản thân bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4]. Về nhân thân bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ “Người phạm tội thành khẩn khai báo” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu: Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 74 ngày 01/11/2016 của Công an thành phố Ninh Bình xử phạt Lê Văn T cảnh cáo về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Lê Văn T đã chấp hành xong.

Từ những phân tích trên, xét thấy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội 1 thời gian dài mới có tác dụng giáo dục cải tại bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

Trong vụ án này về nguồn gốc số Heroine thu giữ, Lê Văn T khai mua của một người nam giới tại khu vực đường đê thuộc địa phận thôn Ngô Đồng, xã Gi, huyện Gi, tỉnh Ninh Bình nhưng Toản không biết cụ thể tên, tuổi, địa chỉ của người này. Do vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công anhuyện N không có cơ sở điều tra để xử lý theo quy định của pháp luật.

[5]. Về hình phạt bổ sung:

Bị cáo mua bán ma túy nhằm mục đích sử dụng, không có mục đích kiếm lời vì vậy không cần áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền với bị cáo.

[6]. Về xử lý vật chứng:

Đối với chất bột màu trắng còn lại trong mẫu gửi giám định ký hiệu M có khối lượng là 0,2524 gam là ma túy, loại Heroine và toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong. Tất cả được niêm phong trong phong bì “Mẫu vật hoàn trả sau giám định” có ghi số 496/KL-KTHS-MT, cùng thông tin về vụ việc và vật chứng, xét đây là vật Nhà nước cấm sử dụng, lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

[7]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lê Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

* Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Văn T 21 (hai mươi mốt) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 10/6/2022.

2. Về xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy: 0,2524 gam là ma túy, loại Heroine và toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong. Tất cả được niêm phong trong phong bì “Mẫu vật hoàn trả sau giám định” có ghi số 496/KL-KTHS-MT, cùng thông tin về vụ việc và vật chứng.

(Chi tiết theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra Công anhuyện N và Chi cục Thi hành án dân sựhuyện N).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Án xử công khai sơ thẩm bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

99
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 64/2022/HS-ST

Số hiệu:64/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nho Quan - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về