Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 62/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUÂN TRƯỜNG - TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN SỐ 62/2023/HS-ST NGÀY 06/09/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 06 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 54/2023/TLST-HS ngày 10 tháng 8 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 55/2023/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 8 năm 2023 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T, sinh ngày 04/8/1982; nơi cư trú: Xóm 8, xã TN, huyện XT, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Công giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Quang S, sinh năm 1956 (đã chết) và bà Đoàn Thị G, sinh năm 1968; gia đình có 06 anh em, bị cáo là con thứ nhất; có vợ là Vũ Thị T, sinh năm 1984 và có 02 con, con lớn sinh năm 2006, con nhỏ sinh năm 2009; tiền án: Không;

Tiền sự: Ngày 09 tháng 9 năm 2020 bị Toà án nhân dân huyện Xuân Trường ra Quyết định về việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Chấp hành xong ngày 18/5/2022.

Nhân thân: Ngày 27/02/2013 bị Toà án nhân dân quận Hai Bà Trưng, T phố Hà Nội xử phạt 25 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, chấp hành xong ngày 28/9/2014.

Bị tạm giữ từ ngày 16/5/2023 đến ngày 25/5/2023 chuyển tạm giam đến nay; “có mặt”.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Vũ Thị T, sinh năm 1984;

địa chỉ: Xóm 8, xã TN, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định; “có mặt”.

- Người chứng kiến: Ông Phạm Văn Y, sinh năm 1977; “vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ ngày 16/5/2023, Nguyễn Văn T một mình điều khiển xe mô tô Honda Wave, BKS 29R3 - X từ nhà ở xóm 8, xã TN, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định đến xóm 11 cùng xã để tìm mua ma tuý sử dụng, đến nơi T gặp một người đàn ông không quen biết. Qua dò hỏi, T biết người này bán ma túy nên hỏi mua 200.000 đồng Heroine, người đàn ông đồng ý, nhận 200.000 đồng và đưa cho T 01 gói nhỏ ngoài gói bằng giấy màu trắng bên trong chứa chất bột dạng cục màu trắng. T xác định là Heroine và cầm ở tay trái điều khiển xe mô tô đi tìm nơi sử dụng. Khoảng 09 giờ 15 phút cùng ngày khi T đang đi trên đường thuộc xóm 8, xã TN thì bị Tổ công tác Đội CSGT-TT Công an huyện Xuân Trường đang làm nhiệm vụ phát hiện T có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu kiểm tra. T tự giác giao nộp cho Tổ công tác 01 gói nhỏ vừa mua và khai là Heroine. Tổ công tác đã mời người chứng kiến lập biên bản phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng ký hiệu M cùng xe mô tô BKS 29R3-X, sau đó bàn giao T cùng toàn bộ tài liệu vật chứng cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Xuân Trường.

Cơ quan điều tra đã khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Văn T nhưng không thu giữ tài liệu, đồ vật gì.

Kết quả xét nghiệm định tính Morphin ngày 16/5/2023 xác định: Nguyễn Văn T dương tính với Morphin.

Tại bản kết luận giám định số 745/KL-KTHS ngày 18/5/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu bột dạng cục màu trắng trong phong bì thư niêm phong ký hiệu M trưng cầu giám định là ma túy. Loại ma túy Heroine, tổng khối lượng M: 0,116 gam.

Cáo trạng số 51/CT-VKSXT ngày 09/8/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Trường đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận hành vi như đã nêu trong Cáo trạng.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Trường luận tội, đánh giá về nhân thân, tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và giữ nguyên quan điểm đã truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về tội danh và hình phạt:

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

- Xử phạt Nguyễn Văn T từ 02 năm đến 02 năm 03 tháng tù.

- Về hình phạt bổ sung: Hoàn cảnh kinh tế gia đình bị cáo khó khăn đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; tịch thu tiêu hủy số Heroine đã thu giữ của bị cáo.

Trả lại cho vợ chồng bị cáo 01 chiếc xe mô tô BKS 29R3 - X Bị cáo không tự bào chữa, tranh luận gì. Trong lời nói sau cùng bị cáo tỏ thái độ ăn năn hối cải và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Xuân Trường, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Trường, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại giai đoạn điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến, kết hợp với kết luận giám định về số Heroine thu giữ cùng các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 09 giờ 15 phút ngày 16/5/2023, tại khu vực xóm 8, xã TN, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định, Nguyễn Văn T có hành vi tàng trữ trái phép 0,116 gam Heroine để sử dụng cho bản thân thì bị bắt quả tang. Vì vậy, hành vi của bị cáo Nguyễn Văn T cấu T tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự như Viện kiểm sát truy tố bị cáo ra phiên tòa ngày hôm nay là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự quản lý của nhà nước về các chất gây nghiện. Tính nguy hiểm của hành vi còn thể hiện ở chỗ: Tệ nạn ma tuý đang là vấn đề nhức nhối của toàn xã hội, nó không chỉ huỷ hoại sức khoẻ của người nghiện mà còn khiến nhiều gia đình rơi vào cảnh khánh kiệt, bần cùng; là nguyên nhân dẫn đến phạm tội và gây mất trật tự, an toàn xã hội; bị cáo Nguyễn Văn T là người nghiện, có nhận thức đầy đủ về tác hại, tính nguy hiểm của hành vi phạm tội về ma túy, song bị cáo vẫn phạm tội.

[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo T khẩn, ăn năn hối cải nên được xem xét áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt.

[5] Từ những phân tích trên, cần phải xử lý nghiêm minh, áp dụng hình phạt tù có thời hạn tương xứng, đủ tác dụng răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung và phù hợp với chính sách pháp luật hình sự đối với loại tội phạm này.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét hoàn cảnh kinh tế gia đình bị cáo khó khăn, bản thân bị cáo nghiện ma tuý nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

[7] Về xử lý vật chứng, tài sản thu giữ: Số Heroine đã thu giữ là vật nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu cho tiêu hủy. Đối với chiếc xe mô tô bị cáo dùng để đi mua ma túy là phương tiện sử dụng hàng ngày của vợ chồng bị cáo nên sẽ trả lại cho vợ chồng bị cáo;

[8] Đối với người đàn ông bán ma túy cho Nguyễn Văn T, quá trình điều tra không xác định được nên không có căn cứ để xử lý.

[9] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 16/5/2023.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Tịch thu tiêu hủy số Heroine trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định số 745/GĐKTHS của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định.

Trả lại cho bị cáo và vợ bị cáo là chị Vũ Thị Tươi 01 chiếc xe mô tô BKS 29R3 – X.

(Chi tiết vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 71/CCTHA ngày 16/8/2023 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Xuân Trường và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Xuân Trường)

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Văn T, chị Vũ Thị Tươi có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hạn thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

27
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 62/2023/HS-ST

Số hiệu:62/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuân Trường - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về