TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 62/2022/HS-ST NGÀY 02/03/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ
Ngày 02 tháng 3 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 25/2022/TLST-HS ngày 26 tháng 01 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 45/2022/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 02 năm 2022 đối với các bị cáo:
1. Nguyễn Bá A, sinh năm 1997 tại tỉnh Nghệ An; thường trú: Xóm B, xã B S, huyện Đ L, tỉnh Nghệ An; chỗ ở: Căn hộ C12-10 chung cư S thuộc khu phố Qu Th, phường B Th, thành phố D A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Bá V, sinh năm 1964 và bà Nguyễn Thị Th (đã chết); có 01 chị ruột, sinh năm 1994; bị cáo có vợ tên Nguyễn Thị Tr, sinh năm 1994; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 31/10/2021 cho đến nay; có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.
2. Lê Thị Thu H, sinh ngày 09/7/2002 tại tỉnh Bình Thuận; thường trú: Thôn B A 3, xã T B, thị xã L G, tỉnh Bình Thuận; chỗ ở: D23 khu dân cư V S, phường A Ph, thành phố Th A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Ngọc Qu, sinh năm 1970 và bà Hà Thị Ch, sinh năm 1966; có 03 anh chị ruột, lớn nhất sinh năm 1990, nhỏ nhất sinh năm 1999; có 01 con ruột, sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 31/10/2021 cho đến nay; có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.
*Người tham gia tố tụng khác:
- Người chứng kiến: Anh Nguyễn Văn Th; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 31/10/2021, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên Lê Thị Thu H thuê xe mô tô chở khách từ nhà trọ tại phường A Ph, thành phố Th A, tỉnh Bình Dương đến khu vực ngã tư 550 thuộc phường D A, thành phố D A, tỉnh Bình Dương gặp một người đàn ông (không rõ nhân thân, lai lịch) hỏi mua 400.00 đồng ma túy được 01 gói nilon miệng kéo dính chứa 03 viên nén màu xanh và 01 bịch nilon miệng kéo dính chứa tinh thể màu trắng. Lúc này, Nguyễn Bá A gọi điện rủ H đến nhà A để sử dụng ma túy, H đồng ý và H nói A đã mua được 400.000 đồng ma túy. Sau đó, H thuê xe chở khách đến căn hộ C12-10 chung cư S L thuộc khu phố Qu Th, phường B Th, thành phố D A, tỉnh Bình Dương do Nguyễn Bá A thuê để cùng nhau sử dụng ma túy. Tại đây, H để số ma túy trên bàn, A lấy 01 viên nén màu xanh uống trước, H bẽ đôi 01 viên nén màu xanh nhưng chưa uống rồi tiếp tục cho một một ít chất bột màu trắng lên 01 cái dĩa bằng sứ màu trắng để sử dụng cùng A.
Đến khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày, trong lúc cả hai đang cùng sử dụng ma túy thì Công an phường B Th phối hợp với Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế - ma túy Công an thành phố D A, tỉnh Bình Dương tiến hành kiểm tra, phát hiện bắt quả tang thu giữ số ma túy còn lại. Nguyễn Bá A và Lê Thị Thu H toàn bộ số ma túy trên của A và H, mua về mục đích để sử dụng nên Công an lập biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang cùng vật chứng.
Vật chứng thu giữ: 01 (một) cái dĩa bằng sứ màu trắng, 01 (một) thẻ dân cư chung cư Sam Land bằng nhựa, 01 (một) tờ tiền Polime mệnh giá 50.000 đồng được cuộn tròn, 01 gói nilon miệng kéo dính chứa tinh thể màu trắng, 01 (một) gói nilon miệng kéo dính chứa 01 viên nén màu xanh và 02 cục chất màu xanh.
Theo Kết luận giám định số 724/MT-PC09 ngày 08/11/2021 và Kết luận bổ sung số 724A/MT-PC09 ngày 09/11/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng gửi đến giám định là ma túy, M1 có khối lượng 0,1086 gam, loại Ketamine; M2 có khối lượng 0,6652 gam, loại MDMA.
Quá trình điều tra các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về các Kết luận giám định số Kết luận giám định số 724/MT-PC09 ngày 08/11/2021 và Kết luận bổ sung số 724A/MT-PC09 ngày 09/11/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương.
Đối với người đàn ông bán ma túy cho Lê Thị Thu H tại khu vực ngã tư 550 thuộc phường D A, thành phố D A, tỉnh Bình Dương, hiện chưa rõ nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố D A, tỉnh Bình Dương tiếp tục điều tra, xác minh xử lý sau.
Bản Cáo trạng số 53/CT-VKS-DA ngày 24 tháng 01 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo Nguyễn Bá A và Lê Thị Mỹ H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, trong phần tranh tụng đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố theo toàn bộ nội dung cáo trạng đã nêu, đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt các bị cáo Nguyễn Bá A và Lê Thị Thu H, mỗi bị cáo với mức án từ 01 (một) năm 03 (ba) tháng đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.
* Về xử lý vật chứng:
- Đối với 01 (một) bì thư đã niêm phong số 724/PC09 bên trong có ma túy còn lại sau giám định, M1 = 0,0728 gam, loại Ketamine; M2 = 0,1857 gam, loại MDMA, là vật cấm lưu thông nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.
- Đối với 01 (một) tờ tiền Polime mệnh giá 50.000 đồng được cuộn tròn, là công cụ các bị cáo A và H sử dụng vào việc phạm tội nên đề nghị tịch thu sung vào Ngân sách nhà nước.
- Đối với 01 (một) cái dĩa bằng sứ màu trắng, 01 (một) thẻ dân cư chung cư Sam Land bằng nhựa, là công cụ sử dụng vào việc phạm tội, không còn giá trị sử dụng nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.
Quá trình tố tụng, các bị cáo có đơn xin xét xử vắng mặt và các bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa, các bị cáo vắng mặt nên không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát về điều luật áp dụng, khung hình phạt, xử lý vật chứng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình tố tụng, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Đối với bị cáo Nguyễn Bá A và Lê Thị Thu H có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 290 Bộ luật Tố tụng hình sự, Tòa án xét xử vắng mặt bị cáo là đúng theo quy định của pháp luật.
[2] Về căn cứ xác định bị cáo phạm tội: Căn cứ vào lời khai của các bị cáo và người chứng kiến; biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 31/10/021, Kết luận giám định số 724/MT-PC09 ngày 08/11/2021 và Kết luận bổ sung số 724A/MT-PC09 ngày 09/11/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương và những chứng cứ, tài liệu được thu thập trong hồ sơ vụ án, xác định: Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 31/10/2021, tại căn hộ C12-10 chung cư S L thuộc khu phố Qu Th, phường B Th, thành phố D A, tỉnh Bình Dương. Lực lượng Công an phường B Th phối hợp với Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy – kinh tế Công an thành phố D A, tỉnh Bình Dương bắt quả tang Nguyễn Bá A và Lê Thị Thu H có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, có khối lượng M1 = 0,1086 gam, loại Ketamine; M2 = 0,6652 gam, loại MDMA.
Như vậy, hành vi tàng trữ ma túy có khối lượng M1 = 0,1086 gam, loại Ketamine; M2 = 0,6652 gam, loại MDMA của các bị cáo Nguyễn Bá A và Lê Thị Thu H với mục đích để sử dụng đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Do đó, Cáo trạng số 53/CT-VKS-DA ngày 24 tháng 01 năm 2022 của Viện kiểm sát thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo cũng như bản luận tội của Kiểm sát viên đối với các bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[3] Tính chất, mức độ của hành vi phạm tội: Tội phạm do các bị cáo thực hiện là nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Các bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo với mức án tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo.
[4] Đây là vụ án có tính chất đồng phạm nhưng chỉ là đồng phạm giản đơn nên không xác định là tội phạm có tổ chức, cụ thể: Bị cáo Hạnh là người đi mua ma túy, còn bị cáo Anh là người rủ bị cáo Hạnh về nơi ở của mình để sử dụng ma túy.
[5] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có.
[6] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét trong quá trình tố tụng, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
[7] Về nhân thân: Các bị cáo là người chưa có tiền án, tiền sự. Tuy nhiên, bản thân các bị cáo là người nghiện ma túy nên cũng cần xem xét khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo.
[8] Về hình phạt:
- Hình phạt chính: Xét các bị cáo phạm tội nghiêm trọng, đã xâm phạm vào sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma tuý, đồng thời các bị cáo là người nghiện ma túy, hành vi phạm tội của bị cáo gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương.Vì vậy Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt tù đối với các bị cáo, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ để giáo dục, cải tạo các bị cáo thành công dân có ích cho gia đình, xã hội và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.
- Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Tuy nhiên, áp dụng phạt tù cũng đủ để răn đe, giáo dục các bị cáo nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.
[9] Về xử lý vật chứng:
- Xét 01 (một) bì thư đã niêm phong số 724/PC09 bên trong có ma túy còn lại sau giám định, M1 = 0,0728 gam, loại Ketamine; M2 = 0,1857 gam, loại MDMA, là vật cấm lưu thông nên cần tịch thu tiêu hủy.
- Xét 01 (một) tờ tiền Polime mệnh giá 50.000 đồng được cuộn tròn, là công cụ các bị cáo A và H sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung vào Ngân sách nhà nước.
- Xét 01 (một) cái dĩa bằng sứ màu trắng, 01 (một) thẻ dân cư chung cư Sam Land bằng nhựa, là công cụ sử dụng vào việc phạm tội, không còn giá trị sử dụng nên đề nghị cần thu tiêu hủy.
[10] Đối với người đàn ông bán ma túy cho Lê Thị Thu H tại khu vực ngã tư 550 thuộc phường D A, thành phố D A, tỉnh Bình Dương, hiện chưa rõ nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố D A, tỉnh Bình Dương tiếp tục điều tra, xác minh xử lý sau, là đúng theo quy định của pháp luật.
[11] Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương đưa ra tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân, mức hình phạt đối với các bị cáo cũng như việc xử lý vật chứng là phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử do vậy được chấp nhận.
[12] Án phí sơ thẩm: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Bá A và Lê Thị Mỹ H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Bá A 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 31/10/2021.
- Xử phạt bị cáo Lê Thị Thu H 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 31/10/2021.
2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 89; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì thư đã niêm phong số 724/PC09 bên trong có ma túy còn lại sau giám định, M1 = 0,0728 gam, loại Ketamine; M2 = 0,1857 gam, loại MDMA và 01 (một) cái dĩa bằng sứ màu trắng, 01 (một) thẻ dân cư chung cư Sam Land bằng nhựa.
- Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước 01 (một) tờ tiền Polome mệnh giá 50.000 đồng.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/01/2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An với Chi cục thi hành án dân sự thành phố Dĩ An).
3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Các bị cáo Nguyễn Bá A và Lê Thị Thu H, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Các bị cáo vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 62/2022/HS-ST
Số hiệu: | 62/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 02/03/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về