Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 61/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN P, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 61/2021/HS-ST NGÀY 26/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 5 năm 2021, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 47/2021/TLST-HS, ngày 16/4/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 52/2021/QĐXXST-HS ngày 11/5/2021, đối với bị cáo:

Họ và tên: ĐÀM VĂN T, sinh năm 1971 tại huyện P, tỉnh Thái Nguyên, tên gọi khác: không. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Xóm C, xã T, huyện P, tỉnh Thái Nguyên. Nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hoá: 7/10; dân tộc: Nùng; giới tính: nam; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Đàm Văn T (Đã chết) và bà: Phan Thị M. Có vợ Lý Thị D và có 02 con, con lớn sinh năm 1993, con nhỏ sinh năm 1998. Gia đình bị cáo có 07 anh chị em, bị cáo là con thứ sáu trong gia đình. Tiền án: Ngày 27/11/2017 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Ngày 29/8/2019 T chấp hành xong hình phạt tù. Tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/01/2021 cho đến nay. Hiện bị cáo đang bị tạm luậtgiam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên. (Có mặt tại phiên tòa).

- Người chứng kiến:

1. Anh Hoàng Văn T, sinh năm 1970 Nơi thường trú: Xóm L, xã T, huyện P, tỉnh Thái Nguyên. (Vắng mặt tại phiên tòa)

2. Anh Hoàng Văn Đ, sinh năm 1967 Nơi thường trú: Xóm L, xã T, huyện P, tỉnh Thái Nguyên. (Vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 00 phút ngày 20/01/2021, tổ công tác của Công an xã Tân Thành, huyện P, tỉnh Thái Nguyên phát hiện bắt quả tang ĐÀM VĂN T, sinh năm 1971, trú tại: Xóm C, xã T, huyện P, tỉnh Thái Nguyên tại khu vực Xóm L, xã T, huyện P đang tàng trữ 01 gói giấy một mặt màu trắng, có nhiều mầu sắc khác nhau, bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng (Theo T khai nhận là ma túy Heroine) mua về để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng theo quy định sau đó bàn giao T cùng vật chứng cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện P để điều tra làm rõ.

Hồi 9 giờ 10 phút ngày 21/01/2021, cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện P tiến hành khám xét khẩn cấp về đồ vật, khu vực nhà ở của ĐÀM VĂN T, nhưng không thu giữ được gì liên quan đến vụ án.

Hồi 20 giờ 00 phút ngày 20/01/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện P phối hợp cùng Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên có sự tham gia của Viện kiểm sát tiến hành mở niêm phong bì thư ký hiệu A cân xác định khối lượng số chất bột màu trắng thu giữ của T có khối lượng là 0,305 gam, lấy toàn bộ 0,305 gam niêm phong vào bì thư (ký hiệu A1) gửi phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên để giám định.

Tại bản kết luận giám định số 334/KL-KTHS ngày 28/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái nguyên, kết luận: Số chất bột dạng cục màu trắng trong phong bì thư (ký hiệu A1) gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine có khối lượng là 0,305 gam.

Tại cơ quan điều tra, ĐÀM VĂN T khai nhận: Bản thân là người nghiện chất ma túy Heroine, nên thường đi mua ma túy về sử dụng cho bản thân, khoảng 11 giờ ngày 14/01/2021, T đi xe bus từ thị trấn Hương Sơn, huyện P đến khu vực bến xe cũ Thái Nguyên, để tìm mua ma túy về sử dụng. Tại đây, T gặp một người đàn ông không rõ tên, tuổi, địa chỉ hỏi và mua được 01 gói ma túy Heroine với giá 200.000 đồng, sau khi mua được ma túy T cất giấu vào cạp quần đùi đang mặc rồi đi về nhà, sau đó T cởi quần ra và để ở đầu giường, đến khoảng 12 giờ 40 phút ngày 20/01/2021, T mặc quần lại, khi đó T vẫn để gói Heroine ở cạp quần rồi đi đến khu vực Xóm L, xã T, huyện P thì bị Công an xã Tân Thành, huyện P kiểm tra, phát hiện bắt quả tang.

Tại phiên tòa bị cáo ĐÀM VĂN T khai nhận rõ hành vi phạm tội như đã khai tại Cơ quan điều tra và bản cáo trạng nêu trên.

Bản cáo trạng số 58/CT-VKSPB, ngày 15/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện P, tỉnh Thái Nguyên truy tố bị cáo ĐÀM VĂN T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa sơ thẩm, trong phần tranh luận vị đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện P đã trình bày lời luận tội và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: Bị cáo ĐÀM VĂN T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo ĐÀM VĂN T từ 30 đến 36 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo; về xử lý vật chứng cần tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định và vỏ niêm phong và buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm, bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định.

Trong phần tranh luận, bị cáo thừa nhận việc truy tố, xét xử là không oan, đúng người, đúng tội. Lời nói sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt thấp nhất để bị cáo có cơ hội sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện P; Điều tra viên; của Viện kiểm sát nhân dân huyện P; Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên. Bị cáo thừa nhận do nghiện ma tuý nên đã tàng trữ ma tuý trong người để sử dụng cho bản thân không bán lại cho ai, không nhằm mục đích gì khác. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản mở niêm phong, cân xác định trọng lượng ma túy, kết luận giám định, phù hợp với lời khai người tham gia tố tụng khác và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định:

Hồi 13 giờ 05 phút ngày 20/01/2021, tại khu vực Xóm L, xã T, huyện P, tỉnh Thái Nguyên, ĐÀM VĂN T là người nghiện chất ma túy đã có hành vi tàng trữ trên người 0,305 gam ma túy, loại Heroine với mục đích để sử dụng cho bản thân, nhưng T chưa kịp sử dụng thì bị tổ công tác Công an xã Tân Thành, huyện P phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng.

Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện P, tỉnh Thái Nguyên truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật viện dẫn nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine....có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

...

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản".

[3] Đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền của Nhà nước về quản lý và sử dụng các chất gây nghiện, gây mất trật tự trị an ở địa phương, là nguyên nhân dẫn đến các loại tội phạm khác.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải, bố đẻ bị cáo là ông Đàm Văn T được tặng Bằng khen vì có thành tích tham gia trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Về nhân thân bị cáo nghiện ma tuý, có nhân thân xấu. Ngày 27/11/2017 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” chưa được xóa án tích bị cáo lại tiếp tục phạm tội với tội phạm cùng tính chất. Xét thấy, cần có một mức án tương xứng với tội trạng mà bị cáo gây ra và cần thiết cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho gia đình và xã hội đồng thời răn đe phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về hình phạt bổ sung: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và xác minh lời khai của bị cáo tại phiên tòa, xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma tuý, không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, không có tài sản riêng nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử xử lý vật chứng như sau:

Đối với vật chứng là 01 (một) bì niêm phong bên trong có chứa 0,295 gam mẫu A1 còn lại sau giám định và vỏ được niêm phong đúng quy định ký hiệu A1 cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát trong lời luận tội đối với bị cáo như đề nghị về tội danh, điều luật áp dụng, xử lý vật chứng là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật cần chấp nhận.

[7] Về tạm giam bị cáo sau khi tuyên án: Căn cứ vào Điều 329 của Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử ra Quyết định tạm giam bị cáo ĐÀM VĂN T với thời hạn 45 (Bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo thi hành án.

[8] Về nguồn gốc số ma túy: T khai mua của 01 người đàn ông không rõ tên tuổi, địa chỉ ở khu vực bến xe cũ, thành phố Thái Nguyên. Quá trình điều tra không đủ căn cứ để xác định người đàn ông như T khai là ai, nên cơ quan Cảnh sát điều tra không có căn cứ để mở rộng điều tra vụ án.

[9] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách nhà nước.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 47 của Bộ luật hình sự. Điều 106;

khoản 2 Điều 136; Điều 329 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo ĐÀM VĂN T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt chính: Xử phạt ĐÀM VĂN T 36 (Ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 20/01/2021.

3. Về tạm giam bị cáo sau khi tuyên án: Quyết định tạm giam bị cáo ĐÀM VĂN T với thời hạn 45 (Bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo thi hành án.

4. Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy01 (một) bì niêm phong bên trong có chứa 0,295 gam mẫu A1 còn lại sau giám định và vỏ được niêm phong đúng quy định ký hiệu A1.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/4/2021 giữa Công an huyện P và Chi cục Thi hành án dân sự huyện P).

5. Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo ĐÀM VĂN T phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm sung quỹ Nhà nước.

6. Về quyền kháng cáo: Án xử công khai có mặt bị cáo ĐÀM VĂN T, báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

159
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 61/2021/HS-ST

Số hiệu:61/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Lương - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về