Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 61/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG T, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 61/2021/HS-ST NGÀY 07/07/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Trong ngày 07 tháng 07 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhâfn dân huyện Mường T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 60/2021/TLST-HS, ngày 18/05/2021, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 62/2021/QĐXXST-HS ngày 23/06/2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Vàng Lò M, tên gọi khác: không; giới tính: Nữ. Sinh năm 1979, tại: Xã Thu L, huyện Mường T, tỉnh Lai Châu.

Nơi cư trú: Bản Là S, xã Tá B, huyện Mường T, tỉnh Lai Châu. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: La Hủ; Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ học vấn: Không biết chữ.

Con ông: Vàng Xá T, đã chết và con bà: Lỳ Cá X, đã chết; Bị cáo có 02 anh, em, bị cáo là con út trong gia đình;

Bị cáo có 2 chồng: Chồng thứ nhất: Lỳ Mò G, đã chết.

Chồng thứ hai: Lò Lò P, sinh năm 1981, trú tại bản Là S, xã Tá B, huyện Mường T, tỉnh Lai Châu; Nghề nghiệp: Trồng trọt.

Bị cáo có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2000, con nhỏ nhất sinh năm 2015.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị tạm giữ từ ngày 23/06/2020 đến ngày 02/07/2020, bị cáo được áp dụng biện pháp cấm đi khởi nơi cư trú, bị cáo tại ngoại tại xã Tá B, huyện Mường T, tỉnh Lai Châu, sau đó bỏ trốn khỏi nơi cư trú.

Bị cáo bị bắt truy nã. Bị tạm giữ ngày 10/03/2021, đến ngày 13/03/2021 bị tạm giam tại nhà tạm giữ, tạm giam Công an huyện Mường T, tỉnh Lai Châu. Có mặt.

*Người bào chữa: Ông Lê Mạnh H - Trợ giúp viên Địa chỉ: Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Lai Châu. Có Mặt.

* Người phiên dịch: Ông Vàng Ma X - Cư trú tại Khu phố 7, Thị trấn Mường T, huyện Mường T, tỉnh Lai Châu. Có Mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau Khoảng 09 giờ, ngày 22/6/2020, Vàng Lò M, sinh năm 1979, trú tại bản Là S, xã Tá B, huyện Mường T, tỉnh Lai Châu một mình đi bộ sang bản Tá B, xã Tá B để tìm mua thuốc phiện về sử dụng. Đến khoảng 18 giờ cùng ngày, khi đi đến gần trung tâm xã Tá B, M đã gặp và mua được của một người đàn ông dân tộc La Hủ lạ mặt 01 gói thuốc phiện (được gói bằng 02 lớp nilon, lớp bên ngoài màu hồng, bên trong màu trắng) với số tiền 500.000 đồng. Sau khi mua được thuốc phiện, M cất giấu gói thuốc phiện này vào bên trong lớp áo đang mặc trên người, rồi đi vào trường tiểu học bán trú xã Tá B để thăm con, sau khi thăm con M đi bộ về nhà.

Đến 22 giờ 30 phút cùng ngày 22/6/2020, M đi bộ đến khu vực bản Tá B, xã Tá B, huyện Mường T, thì bị tổ công tác Công an xã Tá B, huyện Mường T đang làm nhiệm vụ, yêu cầu M dừng lại để kiểm tra. Lúc này M định bỏ chạy thì bị tổ công tác khống chế và yêu cầu M mở gói nilon màu hồng đang cầm trên tay phải để kiểm tra. Qua kiểm tra, tổ công tác phát hiện bên trong có chứa 01 lớp nilon màu trắng, bên trong là thuốc phiện. Tại đây M khai nhận 01 gói thuốc phiện trên là của M, mua về để sử dụng vì bản thân là người nghiện chất ma túy “thuốc phiện”. Trước sự việc nêu trên tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Vàng Lò M về hành vi "Tàng trữ trái phép chất ma túy" và niêm phong lại toàn bộ vật chứng có liên quan.

Tại bản kết luận giám định tư pháp số 34 ngày 23/6/2020 của người giám định tư pháp theo vụ việc Công an huyện Mường T, đã kết luận: Gói vật chứng thu giữ của Vàng Lò M có khối lượng là 3,32 gam.

Tại bản Kết luận giám định số 352, ngày 27/6/2020 của hòng k thuật hình sự - Công an tỉnh ai Châu kết luận: 01 (một) mẫu chất dẻo, màu nâu đen, có mùi hắc gửi đến giám định là ma túy, loại: Thuốc phiện.

Cáo trạng số 31/CTVKS-MT ngày 17/05/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường T, tỉnh ai Châu đã truy tố bị cáo Vàng Lò M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm b khoản 1 Điều 249 B HS năm 2015. Kiểm sát viên tham gia phiên tòa hôm nay giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử, tuyên bố bị cáo Vàng Lò M phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Đề nghị áp dụng điểm b khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự, Đề nghị xử phạt bị cáo Vàng ò Mư từ 01 năm 06 tháng tù đến 02 năm tù; Về hình phạt bổ sung: Theo khoản 5 Điều 249 BLHS. Không áp dụng hình phạt bổ sung là tiền đối với bị cáo do hoàn cảnh bị cáo khó khăn, không có điều kiện thi hành án.

Về xử lý vật chứng vụ án đề nghị áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 B HS; điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự. Tịch thu tiêu hủy 02 mảnh nilon (01 mảnh màu hồng, 01 mảnh màu trắng), sau xác định khối lượng vật chứng.

Về án phí: Áp dụng điểm đ khoản 1 điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo là dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, đề nghị HĐXX xem xét miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

* Người bào chữa cho bị cáo: Nhất trí quan điểm truy tố đối với bị cáo Vàng Lò M phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Đề nghị HĐXX áp dụng theo điểm b khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; Về tình tiết tăng nặng bị cáo không có. Về tình tiết giảm nhẹ trong suốt các giai đoạn tố tụng cũng như tại phiên tòa ngày hôm nay, bị cáo M đều thành khẩn khai nhận toàn bộ quá trình phạm tội của mình.

Đề nghị HĐXX cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo M là người dân tộc thiểu số, cư trú vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, bản thân bị cáo là dân tộc La Hủ. Đề nghị áp dụng khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo với mức án thấp nhất của khung hình phạt; Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; Về xử lý vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 B HS; Điều 106 B TTHS. Đề nghị tịch thu tiêu hủy 02 mảnh nilon (01 mảnh màu hồng, 01 mảnh màu trắng), sau xác định khối lượng vật chứng. Về án phí: Áp dụng điểm đ khoản 1 điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo là dân tộc thiểu số, có hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, sinh sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, đề nghị xem xét miễn nộp án phí Hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Đối với người đàn ông dân tộc Mông lạ mặt đã bán thuốc phiện cho bị cáo Vàng Lò M. Quá trình điều tra không xác định được lai lịch nên không có cơ sở xem xét xử lý.

Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến tranh luận, không có ý kiến bổ sung luận cứ bào chữa. Nhất trí nội dung Luận tội và luận cứ bào chữa. Lời nói sau cùng của bị cáo: Hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Khi bị cáo bỏ trốn do tâm lý bị cáo sợ nên đã bỏ trốn. Bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ qua Điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường T, Kiểm sát viên: Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của BLTTHS. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, không có ai ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Vàng Lò M đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan Điều tra. Đủ cơ sở khẳng định bị cáo Vàng Lò M mục đích mua thuốc phiện về để sử dụng vì bị cáo là người nghiện chất ma túy. Đến 22 giờ 30 phút, ngày 22/6/2020, M đi bộ đến khu vực bản Tá B, xã Tá B, huyện Mường T, thì bị tổ công tác Công an xã Tá B, huyện Mường T đang làm nhiệm vụ, yêu cầu M dừng lại để kiểm tra thì M định bỏ chạy, do đó tổ công tác yêu cầu M mở gói nilon màu hồng đang cầm trên tay phải để kiểm tra. Phát hiện bên trong có chứa 01 lớp nilon màu trắng, bên trong là thuốc phiện có khối lượng là 3,32 gam. Vàng Lò M khai nhận 01 gói thuốc phiện là của M, bị cáo M mua hết 500.000 đồng mang về để sử dụng hút dần. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Vàng Lò M về hành vi "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Vật chứng bị thu giữ 01 gói thuốc phiện. Như vậy hành vi của bị cáo Vàng Lò M đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm b khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tại điều luật quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm; ............

b) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 01gam đến dưới 500 gam;……….

Bị cáo Vàng Lò M đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường T đã truy tố theo tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ, đúng người, đúng hành vi của bị cáo.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến những quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng các chất ma tuý, gây mất trật tự an toàn xã hội tại địa phương, bị cáo nhận thức được điều đó, nhưng vì bị cáo là người nghiện chất ma túy, nên bị cáo đã tàng trữ thuốc phiện 3,32 gam, bị cáo M giấu thuốc phiện vào trong lòng tay nhằm mục đích để che giấu hành vi phạm tội của mình. Bị cáo được áp dụng biện pháp cấm đi khởi nơi cư trú, bị cáo tại ngoại tại xã Tá B, huyện Mường T, tỉnh Lai Châu, do lo sợ nên bị cáo đã bỏ trốn, bị truy nã, bị bắt tạm giam tại nhà tạm giữ - Công an huyện Mường T.

[4] Tuy nhiên khi lượng hình Hội đồng xét xử cần phải xem xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

Xét về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền sự, tiền án. Bị cáo M cư trú và sinh sống ở bản La S, xã Tá B, huyện Mường T, tỉnh ai Châu có nơi cư trú rõ ràng. à dân tộc La Hủ. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Về tình tiết giảm nhẹ, bị cáo đã khai báo thành khẩn về hành vi phạm tội của mình, bị cáo sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, trình độ học vấn không biết chữ, sự hiểu biết pháp luật còn hạn chế đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS.

[5] Hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 điều 249 BLHS bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, xét thấy hoàn cảnh kinh tế của bị cáo khó khăn, không có điều kiện thi hành, Hội đồng xét xử nhất trí miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: 02 mảnh nilon (01 mảnh màu hồng, 01 mảnh màu trắng) sau khi xác định khối lượng vật chứng do không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy. Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[7] Án phí hình sự sơ thẩm: Miễn án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng cho bị cáo Vàng Lò M, HĐXX căn cứ theo điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Do bị cáo hoàn cảnh kinh tế khó khăn, bị cáo sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.

[8] Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy đinh tại các Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng theo điểm b khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; điểm a khoản 1 Điều 47; Điều 50 Bộ luật hình sự; điểm c khoản 2 Điều 106; Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: Bị cáo Vàng Lò M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt bị cáo Vàng Lò M 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Bị cáo được khấu trừ thời gian tạm giữ là 09 ngày từ ngày 23/06/2020 đến ngày 02/07/2020.

Thời hạn tù còn lại tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày10/03/2021.

2. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 02 mảnh nilon: 01 mảnh màu hồng, 01 mảnh màu trắng, sau khi xác định khối lượng vật chứng.

Hiện vật chứng vụ án đang bảo quản tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Mường T, tỉnh Lai Châu.

3. Về án phí: Miễn án phí HS sơ thẩm 200.000 đồng cho bị cáo Vàng Lò M.

4. Quyền kháng cáo: Án xử công khai có mặt bị cáo. Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án lên Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu xem xét theo thủ tục phúc thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

143
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 61/2021/HS-ST

Số hiệu:61/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Tè - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về