Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 60/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 60/2023/HS-ST NGÀY 26/06/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 6 năm 2023, Tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Nghệ An, xét xử trực tuyến sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 52/2023/TLST-HS ngày 22 tháng 5 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 56/2023/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 6 năm 2023 (Phiên tòa diễn ra tại Điểm cầu Trung tâm là Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ gồm có Hội đồng xét xử, Đại diện Viện kiểm sát. Thư ký phiên tòa, người làm chứng. Điểm cầu thành phần là Trại giam công an tỉnh Nghệ An gồm có bị cáo và người tham gia tố tụng khác là các chiến sỹ cảnh sát Trại giam Công an tỉnh Nghệ An) đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T, Sinh ngày 08 tháng 02 năm 1974 tại huyện Đ, tỉnh Nghệ An. Nơi cư trú: Khối 02, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 05/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn C, sinh năm 1948; con bà: Võ Thị Nghĩa (Chết); Vợ: Nguyễn Thị Ngân, sinh năm 1973 (đã ly hôn), Con: có 01 con sinh năm 1998; Tiền án: Không, Tiền sự: Ngày 29/01/2021, Nguyễn Văn T bị Toà án nhân dân huyện Đ ra quyết định áp dụng xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc với thời gian 20 tháng, đến ngày 03/9/2022 đã chấp hành xong quyết định.

Nhân thân: Ngày 26/8/1998, Nguyễn Văn T bị Toà án nhân dân huyện Đ xử 03 tháng tù theo bản án số 35/HSST về tội Gây rối trật tự công cộng. Đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 08/6/1999.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/02/2023 cho đến nay, hiện đang tạm giam, có mặt tại phiên tòa.

*Người làm chứng: ông Lê Đình T, sinh năm 1965; Trú tại: Xóm 6, xã TS, huyện Đ, tỉnh Nghệ An (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 10 giờ ngày 27/02/2023, khi Nguyễn Văn T; Sinh ngày: 08/02/1974; Trú tại khối 2, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Nghệ An đang ở nhà bố của mình là ông Nguyễn Văn C; Sinh năm: 1948, trú tại: xóm 06, xã TS, huyện Đ, tỉnh Nghệ An (Lúc này ông C không ở nhà) thì có một người đàn ông không quen biết tự xưng tên Nam trú tại xã Bồi Sơn, huyện Đ, tỉnh Nghệ An đến gặp T và nhờ để mua ma tuý với số tiền là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) với mục đích là mua để cùng nhau sử dụng chung thì T đã đồng ý. Sau đó, T cầm tiền rồi đi bộ một mình đến khu vực bờ đê thuộc khối 1, thị trấn Đ, huyện Đ thì T thấy một người đàn ông giống với bạn nghiện nên đã đến gặp thì người đàn ông đó tự xưng là tên Huy rồi T hỏi: “Bán cho hai trăm” thì người đàn ông tên Huy đã đồng ý và T đưa tiền cho người đàn ông đó thì người đàn ông đó đưa lại cho T 01 (một) gói ma tuý. Số ma tuý này T đã cất giấu vào trong túi quần bên phải phía trước của mình đang mặc. Mua ma tuý xong, T tiếp tục đi bộ về nhà bố của mình, đến khoảng 10 giờ 45 phút cùng ngày, khi T đang đi tại khu vực đê thuộc xóm 06, xã TS, huyện Đ, tỉnh Nghệ An thì T bị tổ công tác Công an xã Lam Sơn phối hợp cùng Đội Hình sự, Kinh tế, Ma tuý Công an huyện Đ, tỉnh Nghệ An phát hiện bắt quả tang và thu giữ toàn bộ số tang vật trên.

- Ngày 27/02/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ đã thành lập hội đồng mở niêm phong, xác định khối lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong lại, xác định:

+ 01 gói nhỏ bằng giấy thuốc lá màu trắng xanh, kích thước 0,5x1cm, bên trong có chứa chất bột màu trắng thu giữ của Nguyễn Văn T có khối lượng 0,154 gam (Không phẩy một trăm năm mươi tư gam).

Hội đồng đã lấy toàn bộ chất bột màu trắng thu giữ của Nguyễn Văn T để gửi đi giám định tại Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An.

- Tại kết luận giám định số 262/KL- KTHS (Đ2- MT) ngày 03/3/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An đã kết luận:

Mẫu chất bột màu trắng thu giữ của Nguyễn Văn T gửi đến giám định là ma tuý (Heroin).

Số chất bột màu trắng thu giữ của Nguyễn Văn T có tổng khối lượng là 0,154 gam (Không phẩy một trăm năm mươi tư gam).

Mẫu cần giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, Nguyễn Văn T đã thành khẩn khai báo và thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Mục đích tàng trữ trái phép chất ma tuý là để sử dụng.

- Về vật chứng của vụ án và xử lý vật chứng:

Số chất bột màu trắng thu giữ của Nguyễn Văn T có tổng khối lượng là 0,154 gam (Không phẩy một trăm năm mươi tư gam) thu giữ của của Nguyễn Văn T đã được gửi đi giám định và mẫu giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định.

Vật chứng còn lại: 01 (một) phong bì thư màu trắng có kích thước 17x23 cm, niêm phong theo đúng quy định. Phía sau trên các mép dán có đầy đủ chữ ký của các thành viên tham gia niêm phong và chữ ký của Nguyễn Văn T. Bên trong chứa vỏ giấy màu trắng thu giữ của Nguyễn Văn T và vỏ phong bì niêm phong ban đầu.

Vật chứng trên đang được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ.

Bản cáo trạng số 58/CT-VKS-ĐL ngày 19/5/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh Nghệ An truy tố Nguyễn Văn T về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh Nghệ An giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nên giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Áp dụng điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 18 tháng đến 24 tháng tù.

Miễn hình phạt phụ là phạt tiền cho bị cáo. Xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật. Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo nhất trí về tội danh, khung hình phạt, không tranh luận gì thêm và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an huyện Đ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan T hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan T hành tố tụng và người T hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Về sự vắng mặt của người làm chứng: Tại phiên tòa người làm chứng vắng mặt nhưng xét thấy họ đã có lời khai đầy đủ và không ảnh hưởng tới quá trình xét xử vụ án. Căn cứ vào các Điều 293, 299 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử thống nhất vẫn T hành xét xử vụ án.

[3] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa kết luận: Có đủ cơ sở kết luận Nguyễn Văn T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự.

Hội đồng xét xử nhận thấy: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay là hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, được chứng minh bằng Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ được, kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An, đủ cơ sở kết luận: Vào hồi 10 giờ 45 phút ngày 27/02/2023, tại khu vực thuộc Xóm 6, xã TS, huyện Đ, tỉnh Nghệ An. Bị cáo Nguyễn Văn T đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,154 gam ma túy (Heroine) mục đích sử dụng thì bị bắt giữ. Như vậy hành vi của Nguyễn Văn T đã đủ yếu tố cấu thành tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy" được quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[4] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo: Đây là vụ án thuộc loại nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm trật tự trị an xã hội, gây hoang mang dao động trong quần chúng nhân dân, làm ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của nhân dân, gây tâm lý bất an trong xã hội, bị cáo Nguyễn Văn T được gia đình cho ăn học đến lớp 5/12 nhưng không tu chí làm ăn đua đòi nghiện gập nên bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng. Bị cáo tuy không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng là đối tượng có nhân thân xấu đã từng bị xét xử về tội Gây rối trật tự công cộng và có một tiền sự bị TAND huyện Đ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc 20 tháng nên cần lên cho bị cáo một mức án nghiêm khắc và tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Tuy nhiên cũng cần xem xét bị cáo sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cần áp dụng để giảm nhẹ phần nào hình phạt cho bị cáo thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.

[5] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt tù bị cáo còn có thể bị phạt tiền hoặc tịch thu tài sản, nhưng qua xác minh của cơ quan điều tra thì bị cáo là đối tượng nghiện ma tuý, tài sản riêng không có gì đáng giá vì vậy không áp dụng hình phạt tiền hoặc tịch thu tài sản đối với bị cáo.

[6] Trong vụ án này, người đàn ông tên Nam có đặc điểm cao khoảng 1m65, da ngăm đen, tóc dài ngang vai, mặc quần áo tối màu đã nhờ Nguyễn Văn T mua ma túy để về sử dụng chung, qua xác minh, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ không xác định được danh tính người đàn ông như T khai nhận nên không có căn cứ để xử lý.

Đối với người đàn ông tên Huy có đặc điểm cao 1m7, da trắng, tóc cắt cua, mặc áo khoác màu đen, quần tối màu đã bán gói ma túy cho Nguyễn Văn T tại khu vực bờ đê thuộc khối 1, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Nghệ An. Qua xác minh, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ không xác định được danh tính người đàn ông như T đã khai nhận nên không có căn cứ để xử lý đối với người đàn này.

[7] Về vật chứng và xử lý vật chứng: 01 phong bì thư của Công an huyện Đ, kích thước 17x23 cm đã niêm phong bên trong có chứa: vỏ phong bì niêm phong ban đầu, mảnh giấy màu trắng có dòng kẻ xanh thu giữ của Nguyễn Văn T. Đây là vật không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy;

[8] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Các đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ tại phiên tòa về việc giải quyết toàn bộ vụ án là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1 Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: bị cáo Nguyễn Văn T 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo 27/02/2023.

2. Về vật chứng và xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì thư của Công an huyện Đ, kích thước 17x23 cm đã niêm phong bên trong có chứa: vỏ phong bì niêm phong ban đầu, mảnh giấy màu trắng có dòng kẻ màu xanh thu giữ của Nguyễn Văn T (Vật chứng trên có tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/5/2023 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đ và Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ).

3. Về án phí: áp dụng Khoản 2 Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo Nguyễn Văn T có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

17
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 60/2023/HS-ST

Số hiệu:60/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đô Lương - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về