Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 60/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUÂN TRƯỜNG - TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 60/2023/HS-ST NGÀY 06/09/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 06 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 58/2023/TLST-HS ngày 16 tháng 8 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 59/2023/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 8 năm 2023 đối với bị cáo:

Đỗ Duy N, sinh ngày 09/02/1973; nơi cư trú: Xóm 4, xã TN, huyện XT, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Công giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Duy H và bà Nguyễn Thị S (đã chết); gia đình có 11 chị em, bị cáo là con thứ 7; bị cáo có vợ là Phạm Thị T và có 3 con, con lớn nhất sinh năm 1998, con nhỏ nhất sinh năm 2007; tiền án:

+ Ngày 20/6/2008, bị Toà án nhân dân quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, chấp hành xong ngày 28/12/2009;

+ Ngày 13/03/2012, bị Toà án nhân dân quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội xử phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, chấp hành xong ngày 05/4/2014;

+ Ngày 30/10/2015, bị Toà án nhân dân quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội xử phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, chấp hành xong ngày 16/9/2017;

+ Ngày 12/03/2018, bị Toà án nhân dân quận Ba Đình, Thành phố Hà Nội xử phạt 05 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, chấp hành xong ngày 20/01/2023;

Tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 16/5/2023 đến ngày 25/5/2023 chuyển tạm giam; “có mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ ngày 16/5/2023, Đỗ Duy N một mình đi bộ từ nhà ở xóm 4, xã TN, huyện Xuân Trường đến khu vực dân cư thuộc xóm 8, xã TN với mục đích tìm mua ma túy để sử dụng cho bản thân. Tại đây, N gặp một người đàn ông không biết tên, tuổi, địa chỉ, qua dò hỏi biết người này có ma túy bán. N hỏi mua 200.000 đồng Heroine, người đàn ông cầm tiền và đưa lại cho N 01 gói nhỏ bên ngoài gói bằng giấy màu trắng, bên trong chứa chất bột dạng cục màu trắng. N xác định là Heroine, cất vào túi quần bên phải đang mặc rồi đi tìm nơi sử dụng. Khoảng 09 giờ 30 phút cùng ngày, N đang đi bộ trên đường dân cư thuộc khu vực xóm 4, xã TN, huyện Xuân Trường thì bị Tổ công tác Công an xã TN làm nhiệm vụ phát hiện có biểu hiện nghi vấn đã yêu cầu kiểm tra. N tự giác nộp 01 gói nhỏ vừa mua và khai nhận là Heroine. Tổ công tác đã tiến hành niêm phong vật chứng ký hiệu là M, mời người chứng kiến và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Ngay sau đó Công an xã TN đã bàn giao hồ sơ, tài liệu đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Xuân Trường để tiến hành điều tra theo thẩm quyền.

Cơ quan điều tra đã tiến hành khám xét tại nơi ở của Đỗ Duy N, nhưng không thu giữ đồ vật, tài liệu gì.

Tại bản kết luận giám định số 746/GĐKTHS ngày 18/5/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định đã kết luận: Mẫu bột dạng cục màu trắng trong gói giấy nhỏ màu trắng niêm phong ký hiệu M gửi giám định là ma túy. Loại ma túy Heroine. Khối lượng mẫu M là: 0,237 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Đỗ Duy N đã khai nhận toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng cho bản thân như đã nêu trên.

Cáo trạng số 57/CT-VKSXT ngày 15/8/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Trường đã truy tố bị cáo Đỗ Duy N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận hành vi như đã nêu trong Cáo trạng.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Trường luận tội, đánh giá về nhân thân, tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và giữ nguyên quan điểm đã truy tố bị cáo và đề N Hội đồng xét xử: Căn cứ vào điểm o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Về tội danh, tuyên bố bị cáo Đỗ Duy N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; về hình phạt: Xử phạt Đỗ Duy N từ 06 năm 06 tháng đến 07 năm tù; về hình phạt bổ sung: Hoàn cảnh kinh tế gia đình bị cáo khó khăn đề N Hội đồng xét xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; tịch thu tiêu hủy số Heroine đã thu giữ của bị cáo.

Bị cáo không tự bào chữa, tranh luận gì. Trong lời nói sau cùng bị cáo tỏ thái độ ăn năn hối cải và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Xuân Trường, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Trường, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại giai đoạn điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến, kết hợp với kết luận giám định về số Heroine thu giữ, cùng các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở xác định: Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 16/5/2023, tại khu vực đường dân cư thuộc xóm 4, xã TN, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định, Đỗ Duy N đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,237 gam Heroine với mục đích sử dụng cho bản thân thì bị phát hiện bắt quả tang. Vì Đỗ Duy N đã tái phạm nguy hiểm chưa được xóa án tích lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự như Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Trường đã truy tố là có căn cứ.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự quản lý của nhà nước về các chất gây nghiện. Tính nguy hiểm của hành vi còn thể hiện ở chỗ: Tệ nạn ma tuý đang là vấn đề nhức nhối của toàn xã hội, nó không chỉ huỷ hoại sức khoẻ của người nghiện mà còn khiến nhiều gia đình rơi vào cảnh khánh kiệt, bần cùng; là nguyên nhân dẫn đến phạm tội và gây mất trật tự, an toàn xã hội; bị cáo Đỗ Duy N là người nghiện, có nhận thức đầy đủ về tác hại, tính nguy hiểm của hành vi phạm tội về ma túy, song bị cáo vẫn phạm tội.

[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Từ những phân tích trên, cần phải xử lý nghiêm minh, áp dụng hình phạt tù có thời hạn tương xứng, đủ tác dụng răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung và phù hợp với chính sách pháp luật hình sự đối với loại tội phạm này.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy hoàn cảnh kinh tế gia đình bị cáo khó khăn, bản thân bị cáo nghiện ma tuý nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

[7] Về xử lý vật chứng, tài sản thu giữ: Toàn bộ số Heroine đã thu giữ là vật nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu cho tiêu hủy.

[8] Đối với người đàn ông đã bán Heroine cho N, do N không biết tên, tuổi, địa chỉ, ngoài ra không còn nguồn tài liệu, chứng cứ nào khác để chứng minh nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Xuân Trường không có căn cứ để xử lý.

[9] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;

- Tuyên bố bị cáo Đỗ Duy N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”;

- Xử phạt bị cáo Đỗ Duy N 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày từ 16/5/2023.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Tịch thu tiêu hủy số Heroine trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định số 746/GĐKTHS của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định.

(Chi tiết vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 74/CCTHA ngày 28/8/2023 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Xuân Trường và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Xuân Trường)

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án buộc bị cáo Đỗ Duy N phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo Đỗ Duy N có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hạn thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

30
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 60/2023/HS-ST

Số hiệu:60/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuân Trường - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về