Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 58/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V, TỈNH HƯNG YÊN

BẢN ÁN 58/2023/HS-ST NGÀY 24/07/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24/7/2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện V mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 58/2023/HSST ngày 28/6/2023 theo Quyết đinh đưa vụ án ra xét xử số: 58/2023/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 7 năm 2023 đối với Bị cáo:

Quàng Văn T - Sinh năm 1997; HKTT: bản L, xã C, huyện T, tỉnh Sơn La; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái, Tôn giáo: Không; (T là dân tộc thiểu số và là cá nhân thuộc hộ nghèo); Trình độ văn hóa: 9/12, Nghề nghiệp: lao động tự do; Con ông: Quàng Văn T (Đã chết) và bà: Quàng Thị P; Anh, chị, em ruột: có 03 người, bị cáo là thứ 2; Vợ, Con: chưa có; Tiền án, tiền sự: Chưa có. Nhân thân: Ngày 13/01/2017 bị Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Sơn La quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Thời hạn 24 tháng. T bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/3/2023. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hưng Yên. Có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Quàng Văn P Ư, sinh năm 1993; Địa chỉ: bản L, xã H, huyện M, tỉnh Sơn La (vắng mặt);

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Quàng Văn T ở bản L, xã C, huyện T, tỉnh Sơn La (hiện đang thuê phòng trọ ở thôn Đ, xã N, huyện V, tỉnh Hưng Yên) là đối tượng nghiện các chất ma túy (loại Heroine). Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 22/3/2023, T đi bộ đến khu vực nghĩa trang thôn Đ, xã N, huyện V gặp một người đàn ông (không rõ tên, địa chỉ cụ thể) rồi hỏi mua 500.000 đồng tiền ma túy (loại Heroine) mục đích để sử dụng thì được người này bán cho 03 gói ma túy( loại Heroine). Sau đó T cầm số ma túy nêu trên cất vào túi quần phía trước bên trái rồi đi về phòng trọ. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày, anh Quàng Văn P Ư ở bản L, xã H, huyện M, tỉnh Sơn La điều khiển chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đen (không gắn biển số) rồi rủ T và anh Quàng Văn T (là anh trai của T) đi lên khu vực cầu thôn N, xã L, huyện V chơi. Khi đi đến khu vực cầu thôn N thì bị Cơ quan CSĐT-Công an huyện V kiểm tra phát hiện T tàng trữ trái phép ma túy trên người nên đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với T. Vật chứng thu giữ của T: 01 túi nilon màu trắng bên trong có 02 mảnh nilon màu hồng và 01 mảnh nilon màu trắng, hồng được hàn kín trong đều chứa chất màu trắng dạng cục (niêm phong ký hiệu “Tuấn”); thu của anh Ư 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đen (không gắn biển số). Cùng ngày, Cơ quan CSĐT Công an huyện V đã khám xét khẩn cấp chỗ ở của T nhưng không thu giữ được đồ vật, tài liệu gì có liên quan. Kết quả xét nghiệm ma túy đối với Quàng Văn T cho kết quả dương tính với chất ma túy, loại Heroine.

Ngày 22/3/2023, Cơ quan CSĐT Công an huyện V ra Quyết định trưng cầu giám định đối với chất trong niêm phong đã thu giữ của T. Ngày 22/3/2023 và ngày 25/3/2023, phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hưng Yên có Bản thông báo giám định sơ bộ và Bản kết luận giám định số: 182/KL-KTHS(MT), kết luận: mẫu chất màu trắng dạng cục và bột trong niêm phong ghi ký hiệu “T”, có khối lượng 0,458g xác định là ma túy, loại Heroine (Heroin).

Quá trình điều tra xác định: Anh Quàng Văn P Ư và anh Quàng Văn T đều không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo T nên Cơ quan điều tra không xử lý. Cơ quan CSĐT-Công an huyện V cũng chưa làm rõ được lai lịch, địa chỉ cụ thể của đối tượng đã bán ma túy cho T nên tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau.

Đối với vật chứng của vụ án là: 01 phong bì niêm phong hoàn mẫu vật gửi giám định đã thu giữ của T, Cơ quan điều tra đã nhập kho vật chứng để chờ xử lý theo quy định của pháp luật. Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đen (không gắn biển số) quá trình điều tra xác định đăng ký chủ xe là chị Quàng Thị Q sinh năm 1982 ở bản M, xã M, huyện S, tỉnh Sơn La. Sau đó, anh Quàng Văn P Ư đã mua lại chiếc xe mô tô trên của chị Q để làm phương tiện đi lại. Do trong quá trình sử dụng anh Ư đã làm rơi mất chiếc biển số xe mô tô trên. Cơ quan điều tra cũng tiến hành tra cứu và xác định chiếc xe trên không phải xe vật chứng nên đã nhập kho vật chứng để chờ xử lý theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Quàng Văn T đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như nêu ở trên.

Tại bản cáo trạng số 62/CT - VKS ngày 28/6/2023 của VKSND huyện V truy tố bị cáo Quàng Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà: Bị cáo T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng đã truy tố là đúng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện V đề nghị Hội đồng xét xử tuyên xử bị cáo Quàng Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý". Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Quàng Văn T từ 1 năm 9 tháng đến 2 nămtù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 22/3/2023.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 46; khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự;

khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu cho tiêu hủy 01 phong bì niêm phong hoàn lại mẫu vật giám định của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hưng Yên.

Trả lại anh Quàng Văn P Ư 01 chiếc xe mô tônhãn hiệu Yamaha Sirius màu đen (không gắn biển số).

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Căn cứ điểm đ Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội.

Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện V, Điều tra viên, Viện kiểm sát huyện V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo T tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, lời khai của những người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định đồng thời phù hợp với vật chứng thu giữ của bị cáo cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Khoảng 15 giờ ngày 22/3/2023 tại khu vực cầu thôn N, xã L, huyện V, tỉnh Hưng Yên, Quàng Văn T đã có hành vi tàng trữ trái phép trên người 03 gói ma túy là loại Heroine có tổng khối lượng 0,458gam để sử dụng thì bị Cơ quan CSĐT-Công an huyện V phát hiện bắt quả tang cùng toàn bộ vật chứng.

[3]. Bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được tác hại của chất ma túy và xuất phát từ việc coi thường pháp luật nên đã có hành vi tàng trữ trái phép trên người 03 gói ma túy là loại Heroine có tổng khối lượng 0,458gam để sử dụng thì bị Cơ quan CSĐT-Công an huyện V phát hiện bắt quả tang cùng toàn bộ vật chứng.Do đó VKSND huyện V truy tố bị cáo Quàng Văn T về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4]. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm hại đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý được luật hình sự bảo vệ, gây ra hậu quả xấu cho xã hội, xâm phạm trật tự, an toàn xã hội, ngoài ra bị cáo có nhân thân xấu:Ngày 13/01/2017 bị Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Sơn La quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Thời hạn 24 tháng, bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân, nay lại tiếp tục có hành vi phạm tội liên quan đến ma túy, Do đó việc xử lý bị cáo bằng một bản án thật nghiêm khắc là cần thiết.

[5]. Tuy nhiên, khi lượng hình, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải, bị cáo là dân tộc thiểu số và cá nhân thuộc hộ nghèo, đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử sẽ xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[6]. Sau khi cân nhắc tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy việc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết, có như vậy mới có tác dụng giáo dục bị cáo trở thành người làm ăn lương thiện, sống có ích cho xã hội, đồng thời cũng có tác dụng răn đe giáo dục phòng ngừa tội phạm chung.

[7]. Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo nghề nghiệp không ổn định, mắc nghiện ma túy, thuộc hộ nghèo và không có tài sản riêng nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8]. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 46; khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Đối với 01 phong bì niêm phong mẫu vật hoàn lại trong niêm phong của phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Hưng Yên là vật chứng liên quan đến việc phạm tội nên sẽ tịch thu cho tiêu hủy.

Đối với 01 chiếc xe mô tônhãn hiệu Yamaha Sirius màu đen (không gắn biển số) của anh Quàng Văn P Ư không liên quan đến việc phạm tội nên sẽ trả lại cho anh Ư

[9]. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Căn cứ điểm đ Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội.

Bị cáo T là người dân tộc thiểu sốvà cá nhân thuộc hộ nghèonên miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Quàng Văn T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Quàng Văn T 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày22/3/2023.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 46; khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự;

khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu cho tiêu hủy 01 phong bì niêm phong hoàn lại mẫu vật giám định của Phòng kỹ thuật hình sự-Công an tỉnh Hưng Yên.

Trả lại anh Quàng Văn P Ư 01 chiếc xe mô tônhãn hiệu Yamaha Sirius màu đen (không gắn biển số).

Về án phí:Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Căn cứ điểm đ Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội.

Miễn án phí Hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Ư vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

36
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 58/2023/HS-ST

Số hiệu:58/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Văn Giang - Hưng Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về