Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 58/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG NĂNG, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 58/2022/HS-ST NGÀY 10/11/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 11 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Krông Năng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 50/2022/HSST ngày 05 tháng 10 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 58/2022/QĐXXST - HS ngày 28 tháng 10 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn H;

Tên gọi khác: Không;

Sinh năm: 1959; Tại: tỉnh Hải Dương;

Nơi ĐKNKTT và nơi ở trước khi phạm tội: thôn Tr, xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk.

Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không;

Trình độ học vấn: 7/10; Nghề nghiệp: Làm nông;

Con ông: Nguyễn Văn C, đã chết; Con bà: Nguyễn Thị Tr, đã chết;

Họ và tên vợ: Nguyễn Thị S, sinh năm 1960.

Con: Bị cáo có 5 con (lớn nhất sinh năm 1981; nhỏ nhất sinh năm 2009).

Nhân thân:

- Năm 1981 bị TAND huyện Cẩm Bình, tỉnh Hải Hưng xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, theo bản án số 47/HSST ngày 25/9/1981.

- Năm 1994 bị TAND tỉnh Đắk Lắk xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, theo bản án số 11/HSPT ngày 06/4/1994.

- Năm 1995 bị TAND huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 tháng về tội Đánh bạc, theo bản án số 15/HSST ngày 16/7/1995.

- Năm 2010 bị TAND huyện M’Đrăk, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 03 năm tù về tội Tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy, theo bản án số 11/2010/HSST ngày 10/6/2010.

- Năm 2015 bị TAND tỉnh Đắk Lắk xử phạt 03 năm tù về tội Tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy, theo bản án số 345/2015/HSST ngày 20/8/2015.

Tiền án; Tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 20/4/2022, sau đó chuyển tạm giam. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Krông Năng, có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1985. Địa chỉ: Thôn 4, xã E, huyện M, tỉnh Đắk Lắk ( Có mặt).

- Người làm chứng: Ông Sùng A Ch (Vắng mặt) và ông Giàng A N (Vắng mặt).

Địa chỉ: Thôn G, xã E, huyện K, Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn H là đối tượng nghiện ma túy. Khoảng 11 giờ ngày 20/4/2022, H điều khiển xe mô tô màu nâu, đã bị gãy biển kiểm soát từ nhà tại thôn Tr, xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk đến thôn G, xã E, huyện K tìm mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Khi đến khu vực nghĩa địa thôn G thì H gặp một người phụ nữ mặc đồ dân tộc Mông, khoảng 40 tuổi, H hỏi có ma túy không? bán cho 400.000 đồng, thì người phụ nữ nói không có, để đi lấy giúp cho. H đưa người phụ nữ số tiền 400.000 đồng, người phụ nữ cầm tiền và đi khoảng 10 phút thì quay lại và đưa cho H một gói giấy bạc. H nhận gói ma túy xong thì cất vào túi quần bên phải và điều khiển xe mô tô về, khi đi đến bờ suối thôn G thì bị lực lượng Công an huyện Krông Năng phát hiện, bắt quả tang. Thu giữ tại túi quần bên phải của H 01 gói giấy bạc bên trong là ma túy, loại Heroine.

Tại bản kết luận giám định số 388 ngày 26/4/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận: chất rắn màu trắng đựng trong 01 gói giấy bạc được niêm phong gửi giám định là Ma túy, có khối lượng 0,3450 gam, loại Heroine.

- Vật chứng thu giữ trong vụ án gồm:

+ 01 gói giấy bạc, bên trong chứa 0.2999 gam ma túy, loại Heroine (hoàn lại sau giám định) + 01 xe mô tô không có biển kiểm soát.

Cáo trạng số 50/CT - VKS ngày 04/10/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Năng truy tố bị cáo Nguyễn Văn H về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị:

- Về trách nhiệm hình sự:

+ Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H từ 24 tháng đến 30 tháng tù.

- Về xử lý vật chứng:

- Căn cứ Điều 47 BLHS và Điều 106 BLTTHS, đề nghị: Tịch thu, tiêu hủy 01 gói giấy bạc, bên trong chứa 0.2999 gam ma túy, loại Heroine (hoàn lại sau giám định).

Sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm thì bị cáo không có ý kiến tranh luận, chỉ đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Krông Năng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Năng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như diễn biến hành vi mà Viện kiểm sát đã truy tố bị cáo theo nội dung bản cáo trạng.

Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay cơ bản phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy đã có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 20/4/2022, tại thôn G, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, lực lượng Công an huyện Krông Năng bắt quả tang Nguyễn Văn H có hành vi tàng trữ trái phép 0,3450 gam ma túy, loại Heroine.

Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn H đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Năng truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là hoàn toàn có căn cứ.

Điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine …………….có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

Hành vi phạm tội do bị cáo Nguyễn Văn H thực hiện có tính nguy hiểm cho xã hội. Bởi vì hành vi của bị cáo không những đã xâm phạm đến chế độ quản lý của nhà nước về chất ma túy mà còn gây ảnh hưởng rất xấu đến an ninh trật tự tại địa phương. Chính vì vậy việc xử lý nghiêm khắc bị cáo bằng pháp luật hình sự là hoàn toàn cần thiết và thỏa đáng, vì như vậy không chỉ có tác dụng trừng trị, cải tạo giáo dục bị cáo mà còn có tác dụng giáo dục phòng ngừa chung trong cộng đồng. Xét tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định để đảm bảo việc cải tạo giáo dục các bị cáo thành công dân có ích cho xã hội.

[3]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.

[4]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra vụ án và tại phiên tòa bị cáo đã tỏ ra thành khẩn khai báo; Bị cáo có bác ruột và anh ruột là liệt sĩ. Thực hiện chính sách khoan hồng của pháp luật, Hội đồng xét xử sẽ áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo khi ấn định mức hình phạt cụ thể.

[5]. Về biện pháp tư pháp:

- Đối với 0.2999 gam ma túy, loại Heroine (mẫu vật còn lại sau giám định):

Đây là vật nhà nước cấm lưu hành, vì vậy cần tịch thu, tiêu hủy.

- Đối với chiếc xe mô tô bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội: Bị cáo khai là xe mượn của con gái là Nguyễn Thị Tr. Tuy nhiên, chị Tr không có tài liệu chứng minh chiếc xe là tài sản của mình, Cơ quan Điều tra đã xác minh, nhưng chưa xác định được chủ sở hữu. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Năng chuyển xe mô tô cho Đội Cảnh sát giao thông Công an huyện để tiếp tục xác minh, xử lý là phù hợp.

[6]. Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ, cần được chấp nhận.

[7]. Về án phí: Do xác định hành vi của bị cáo là phạm tội và phải chịu hình phạt nên cần buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 02 ( Hai ) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt, ngày 20/4/2022.

2. Về biện pháp tư pháp: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tuyên tịch thu, tiêu hủy 0.2999 gam ma túy, loại Heroine (Mẫu vật còn lại sau giám định).

(Vật chứng tuyên tịch thu, tiêu hủy đã được Cơ quan cảnh sát điều tra chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện Krông Năng theo Biên bản giao nhận ngày 05/10/2022).

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Nguyễn Văn H phải nộp 200.000đ ( Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, đương sự có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

6
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 58/2022/HS-ST

Số hiệu:58/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông Năng - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/11/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về