Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 58/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHƯỚC LONG, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 58/2022/HS-ST NGÀY 30/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 9 năm 2022 tại Tòa án nhân dân thị xã Phước Long, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 52/2022/TLST-HS ngày 16 tháng 9 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 60/2022/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 9 năm 2022, đối với bị cáo:

Trần Văn T, sinh năm 1990 tại Nghệ An; HKTT: Thôn 8, xã Đ, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hoá (học vấn) 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn L và bà Trương Thị L1; Chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 19/12/2013, bị Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 07 tháng tù về Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Bản án số 111/2013/HSST và ngày 25/3/2016, bị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 03 năm 06 tháng tù về Tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo Bản án số 60/2016/HSST (đã được xóa án tích); Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/6/2022 cho đến nay; Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ ngày 05/6/2022, bị cáo T dùng điện thoại di động hiệu Samsung màu đen gọi vào số điện thoại 0327450X cho đối tượng không rõ nhân thân, lai lịch tên “Một” hỏi mua ma túy để sử dụng thì được “Một” đồng ý. Sau khi gọi điện cho “Một”, T đi bộ đến gần cổng chùa khu phố 2, phường Phước Bình thì có một đối tượng không rõ thân nhân, lai lịch (không phải là “Một”) đưa cho T một đoạn ống hút nhựa màu trắng sọc vàng đỏ hàn kín hai đầu có kích thước khoảng 4cm và nói là 300.000 đồng rồi bỏ đi. Sau khi nhận được ma túy, T cất vào túi quần trước bên phải rồi đi bộ ra hướng Trung tâm thương mại Phước Bình, đi được khoảng 600m thì bị Công an phường Phước Bình kiểm tra hành chính, phát hiện và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với T về hành vi cất giữ trong túi quần trước bên phải một đoạn ống nhựa màu trắng sọc vàng đỏ chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy tổng hợp.

Vật chứng thu giữ gồm có: một đoạn ống hút nhựa màu trắng sọc vàng đỏ hàn kín hai đầu có kích thước khoảng 4cm, một điện thoại di động hiệu Samsung màu đen đã bị trầy xước nhiều.

Theo kết luận giám định số 120/KL(MT)-KTHS ngày 09/6/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước kết luận: Tinh thể màu trắng có trong một đoạn ống hút nhựa được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine có khối lượng 0,2929 gam.

Ngày 10/6/2022, Trần Văn T bị khởi tố bị can để điều tra.

Bản cáo trạng số 52/CTr-VKSPL ngày 16/9/2022, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phước Long đã truy tố Trần Văn T về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát thực hiện quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo T về Tội tàng trữ trái phép chất ma túy; bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào, có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 32, 38, 50; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, tuyên bị cáo T phạm Tội tàng trữ trái phép chất ma túy và xử phạt bị cáo T từ 03năm tù đến 03 năm 06 tháng tù.

Vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định được niêm phong là 0,2030 gam. Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước một điện thoại di động hiệu Samsung màu đen bị trầy xước nhiều do đây là công cụ phạm tội.

- Bị cáo T tự bào chữa: Thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã truy tố và không có ý kiến tranh luận.

- Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm trở về làm lại cuộc đời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các T liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Phước Long, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phước Long, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố; phù hợp với lời khai của người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ được và kết luận giám định trong quá trình điều tra, cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở kết luận: Ngày 05/6/2022, tại khu vực thuộc khu phố 2, phường Phước Bình, thị xã Phước Long, tỉnh Bình Phước bị cáo T đã có hành vi cất giữ trái phép 0,2929 gam ma túy loại Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và nhận thức rõ hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy nhưng vẫn cố ý thực hiện. Do đó, hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành Tội tàng trữ trái phép chất ma túy, Viện kiểm sát truy tố và luận tội bị cáo theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào; không có tiền án, tiền sự; nhưng nhân thân xấu, đã từng bị Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 07 tháng tù về Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và bị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 03 năm 06 tháng tù về Tội tàng trữ trái phép chất ma túy nhưng không lấy đó làm bài học để trở thành con người có ích cho gia đình và xã hội mà tiếp tục phạm tội, chứng tỏ bị cáo coi thường pháp luật và không thể tự cải tạo. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy việc áp dụng hình phạt tù cách ly bị cáo khỏi xã hội là cần thiết.

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự và được xem xét khi quyết định mức hình phạt cho bị cáo.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng vụ án:

01 điện thoại di động hiệu Samsung màu đen là phương tiện dùng vào việc phạm tội, là tài sản hợp pháp của bị cáo T, vẫn còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định được niêm phong là 0,2030 gam.

[6] Đối với đối tượng tên “Một” và đối tượng giao ma túy cho bị cáo T, do chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Phước Long đã tách ra tiếp tục xác minh, xử lý sau nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Đối với Bùi Ngọc Trung là chủ thuê bao số điện thoại 0327450X, hiện không có mặt tại địa phương và không rõ đang ở đâu nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Phước Long đã tách ra tiếp tục xác minh, xử lý sau nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[7] Quan điểm của Viện kiểm sát về tội danh, hình phạt đối với bị cáo là có căn cứ, phù hợp với quy định pháp luật, phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên được ghi nhận.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; các điều 38, 50 Bộ luật hình sự;

Tuyên bố bị cáo Trần Văn T phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Trần Văn T 03 (Ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 06/6/2022.

2. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định được niêm phong là 0,2030 gam.

Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu đen bị trầy xước nhiều.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/9/2022).

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự;

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (30/9/2022).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

27
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 58/2022/HS-ST

Số hiệu:58/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phước Long - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về