Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 58/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 58/2022/HS-ST NGÀY 23/02/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 60/2022/TLST-HS ngày 25 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 59/2022/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 02 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Bá T Tên gọi khác: Không.

Sinh ngày: 16/10/1987 tại tỉnh Điện Biên.

Nơi cư trú: Thôn Th, xã Th, huyện Đ, tỉnh Điện Biên.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa (học vấn): 09/12 PT; Con ông: Phạm Bá T 1 và con bà Tạ Thị Q; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án: 01 tiền án về tội Trộm cắp tài sản tại bản án số 02/2009/HSST ngày 12/02/2009 của Tòa án nhân dân huyện I, tỉnh Gia Lai (chưa được xóa án tích), tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 19/11/2010 bị Tòa án nhân dân thành phố Đ xử phạt 48 tháng tù về tội Cướp tài sản (bị cáo đã chấp hành xong toàn bộ bản án, được coi là đương nhiên xóa án tích). Bị tạm giữ từ ngày 09/10/2021 sau đó bị tạm giam cho đến nay. (Có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Lù Văn T - sinh năm 1975. Nơi cư trú: Bản P, xã Th, huyện Đ, tỉnh Điện Biên (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 10 phút ngày 09/10/2021, tổ công tác Công an phường Th phối hợp với Đội Cảnh sát giao thông Công an thành phố Đ làm nhiệm vụ tại khu vực đầu cầu A1 thuộc tổ X, phường Th, thành phố Đ, phát hiện Phạm Bá T đang điều khiển xe mô tô nhãn hiệu MAGIC BKS 27F2-26xx chở sau là Lù Văn T có biểu hiện nghi vấn phạm tội về ma túy. Tổ công tác yêu cầu dừng xe để kiểm tra, phát hiện trong túi quần sau bên phải của T đang mặc một gói được gói ngoài bằng 02 mảnh nilon màu hồng bên trong có chứa 01 viên nén màu hồng trên một mặt có ký hiệu WY. Phạm Bá T khai nhận đó là hồng phiến, T mua về để sử dụng cho bản thân. T không biết việc T mua và cất giấu ma túy.

Quá trình điều tra Phạm Bá T khai nhận: Viên hồng phiến bị thu giữ là do bị cáo mua của người đàn ông không quen biết ở ven đường thuộc khu vực Bản X, xã Th, huyện Đ vào buổi trưa cùng ngày với giá 30.000 đồng. Sau khi mua được ma túy bị cáo cất vào túi quần bên phải đang mặc rồi điều khiển xe lên thành phố Đ. Tại đây T gặp Lù Văn T trú tại Bản P, xã Th, huyện Đ. Cả hai đi nhặt sắt vụn bán được 230.000 đồng. T không biết việc T đi mua và tàng trữ ma túy trong người nên rủ T đi mua ma túy về cùng nhau sử dụng nhưng chưa mua được thì bị phát hiện.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 viên nén màu hồng có khối lượng 0,1 gam được gói bằng 02 mảnh nilon màu hồng; xe mô tô nhãn hiệu MAGIC BKS 27F2-26xx kèm chìa khóa của xe; 230.000 đồng tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam đang lưu hành.

Tại bản kết luận giám định số 1167/GĐ-PC09 ngày 16/10/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Khối lượng vật chứng được ký hiệu M là 0,1 gam. Mẫu viên nén màu hồng được ký hiệu M gửi giám định là chất ma túy: Loại Methamphetamine. Hoàn lại mẫu vật còn lại sau giám định M: 0,06 gam có biên bản đóng gói, niêm phong và giao, nhận lại đối tượng giám định kèm theo.

Tại bản kết luận giám định số 1171/GĐ-PC09 ngày 18/10/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: 10 tờ tiền gửi giám định là tiền thật. Hoàn lại toàn bộ mẫu vật gửi đến giám định.

Tại bản cáo trạng số 11/CT-VKSTPĐBP ngày 24/01/2022 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ đã truy tố bị cáo Phạm Bá T về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ giữ quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS: Xử phạt bị cáo từ 18 đến 21 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47/BLHS; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106/BLTTHS. Tịch thu tiêu hủy 0,06 gam Methamphetamine vật chứng còn lại sau giám định và 02 mảnh nilon màu hồng.

Trả lại cho bị cáo số tiền 140.000 đồng. Trả lại cho Lù Văn T số tiền 90.000 đồng.

Về trách nhiệm dân sự: Không.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến tranh luận gì về phần luận tội và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ. Bị cáo không bào chữa gì cho hành vi của mình.

Lời nói sau cùng: Bị cáo đề nghị HĐXX xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, truy tố, phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Biên bản tạm giữ đồ vật tài liệu, Biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định chất ma túy niêm phong lại vật chứng, Kết luận giám định...Do đó, có đủ cơ sở khẳng định: Hồi 13 giờ 10 phút ngày 09/10/2021 tại khu vực Tổ dân phố X, phường Th, thành phố Đ, Phạm Bá T đã có hành vi cất giấu trái phép trên người 0,1 gam Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS.

Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ đa truy t ố đôi vơi bị cáo là có căn cứ pháp luật. Hành vi phạm tội của bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, gây mất trật tự, an toàn xã hội. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện tội phạm với lỗi cố ý.

[2]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo: Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Tại bản án số 02/2009/HSST ngày 12/02/2009 Tòa án nhân dân huyện I, tỉnh Gia Lai xử phạt bị cáo 12 tháng tù về tội trộm cắp tài sản. Bị cáo phải bồi thường cho người bị hại Dương Thị T số tiền 12.000.000 đồng và phải chịu án phí HSST, DSST. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù, ngày 23/4/2009 nộp tiền án phí, 08/10/2009 bồi thường cho chị T 500.000 đồng, số tiền còn lại 11.500.000 đồng chưa thi hành. Như vậy, bị cáo chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục phạm tội nên phải chịu tiết tăng nặng “Tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52/BLHS.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS.

Về nhân thân: Năm 2010 bị Tòa án nhân dân thành phố Đ xử phạt 48 tháng tù về tội Cướp tài sản, bị cáo đã chấp hành xong toàn bộ bản án đương nhiên được xóa án tích nhưng được coi là có nhân thân xấu. Năm 2014 bị cáo sử dụng chất ma túy. Như vậy đây là lần thứ ba bị cáo bị Tòa án xét xử, nhưng do thiếu ý thức tu dưỡng, rèn luyện bản thân nên vẫn tiếp tục sử dụng ma túy, đây cũng là nguyên nhân dẫn đến việc bị cáo phạm tội.

Hình phạt mà Đại diện Viện kiểm sát đề nghị là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo nên hội đồng xét xử chấp nhận. Cần thiết phải áp dụng mức hình phạt tù phù hợp, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo có thời gian cai nghiện trở thành công dân tốt, có ý thức tuân thủ pháp luật. Có thể cho bị cáo mức hình phạt tù thấp nhất theo đề nghị của Kiểm sát viên cũng đủ để răn đe, giáo dục bị cáo.

[3]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249/BLHS thì ngoài hình phạt chính người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng... Tuy nhiên theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là người nghiện ma túy, thu nhập không ổn định, không có tài sản gì có giá trị. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo vì bị cáo không có khả năng thi hành.

[4]. Về biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng:

Đối với 0,1 gam ma tuý thu giữ của bị cáo, sau khi gửi toàn bộ để giám định còn lại 0,06 gam - vật chứng còn lại của vụ án, là vật Nhà nước cấm tàng trữ; 02 mảnh nilon màu hồng là vật dùng gói ma túy không có giá trị, không sử dụng được nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a, c khoản 1 Điều 47/BLHS và điểm a, c khoản 2 Điều 106/BLTTHS.

Đối với chiếc xe mô tô hiệu MAGIC BKS 27F2-26xx kèm chìa khóa của xe quá trình điều tra xác định đây là tài sản của bà Tạ Thị Q cho bị cáo mượn, bà Q không biết bị cáo sử dụng xe làm phương tiện phạm tội, Cơ quan điều tra đã trả lại tài sản cho chủ sở hữu. Việc trả lại tài sản là đúng quy định nên HĐXX không xem xét giải quyết. Do quyền lợi của bà Q đã được giải quyết nên không triệu tập bà Q để xét hỏi tại phiên tòa.

Đối với số tiền 230.000 đồng là tiền của bị cáo và Lù Văn T do đi nhặt phế liệu mà có (trong đó 140.000 đồng của bị cáo và 90.000 đồng của T) không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo và T theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 106/BLTTHS.

[5]. Các vấn đề khác: Đối với đối tượng bị cáo khai đã bán ma túy, quá trình điều tra không có cơ sở xác minh làm rõ; Lù Văn T không biết việc bị cáo mua và cất giấu ma túy Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát không đề cập nên hội đồng xét xử không xem xét xử lý.

[6]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Cơ quan điều tra Công an thành phố Điện Biên Phủ, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo, người tham gia tố tụng khác đều không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Cơ quan điều tra Công an thành phố Điện Biên Phủ, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ đều hợp pháp.

[7]. Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự:

Tuyên bố bị cáo Phạm Bá T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Xử phạt bị cáo Phạm Bá T 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ (09/10/2021).

2. Về biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 0,06 gam Methamphetamine vật chứng còn lại sau giám định và 02 mảnh nilon màu hồng.

- Trả lại cho bị cáo Phạm Bá T số tiền 140.000 đồng (Một trăm bốn mươi nghìn đồng). Trả lại cho Lù Văn T số tiền 90.000 đồng (Chín mươi nghìn đồng).

(Vật chứng đã được niêm phong và được Công an thành phố Điện Biên Phủ bàn giao sang Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Điện Biên Phủ theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 25/01/2022).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (23/02/2022). Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án về những vấn đề liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

149
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 58/2022/HS-ST

Số hiệu:58/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về