Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 58/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN LẠC, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 58/2021/HS-ST NGÀY 22/11/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 53/2021/TLST-HS ngày 04 tháng 10 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 59/2021/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 10 năm 2021, đối với bị cáo:

Văn Minh Đ,sinh ngày 31/3/1982; nơi sinh: Xã Đ T, huyện Y L, tỉnh Vĩnh Phúc; nơi cư trú: Thôn Đ T 2, xã Đ T, huyện Y L, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Văn Minh T, sinh năm 1942 và bà Hoàng Thị H, sinh năm 1947; vợ là Nguyễn Thị X, sinh năm 1984 và 01con sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Tại Bản án số 20/2015/HS-ST ngày 05/05/2015 của Tòa án nhân dân huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt Văn Minh Đ 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Đ đã chấp hành xong án phạt tù ngày 04/8/2015 và thi hành xong nghĩa vụ của bản án.

Bịbắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 27 tháng 6 năm 2021 cho đến nay (có mặt).

- Người làm chứng:Anh Lê Thanh T1, sinh năm 1985.

Nơi cư trú: Thôn T K 4, xã Đ T, huyện Y L, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt).

- Người chứng kiến: Ông Văn Khắc S, sinh năm 1960.

Nơi cư trú: Thôn Đ T 3, xã Đ T, huyện Y L, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Văn Minh Đ là đối tượng nghiện chất ma túy từ năm 2010 đến ngày bị bắt giữ. Để có ma túy sử dụng cho bản thân, khoảng 08 giờ 00 phút ngày 27/6/2021, Đ cùng với bạn nghiện là Văn Như T2, sinh năm 1981 ở thôn Tam Kỳ 5-6, xã Đ T, huyện Y L, tỉnh Vĩnh Phúc đi đến thị trấn Thổ Tang, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc để tìm mua ma túy (Heroine) về sử dụng. T2 điều khiển xe mô tô của T2 (không rõ biển kiểm soát) chở Đ đến thị trấn Thổ Tang, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc. Đến nơi, T2 một mình đi tìm mua ma túy còn Đ đứng đợi.Một lúc sau, T2 quay lại đón Đ ra một nghĩa trang ở thị trấn Thổ Tang, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc để sử dụng. Tại đây, T2 chia gói ma túy (Heroine) làm 02 phần, một phần T2 cùng Đ sử dụng hết, phần ma túy còn lại T2 gói vào 01 túi nilon màu đen rồi cho Đ để Đ cầm về sử dụng sau. Đ cầm gói ma túy mà T2 cho cất giấu vào trong túi quần bên trái phía trước Đ đang mặc. Sau đó, Đ và T2 đi về xã Đ T, huyện Y L, tỉnh Vĩnh Phúc. Trên đường đi đến thị trấn Tứ Trưng, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc thì cả hai gặp Lê Thanh T1 là bạn nghiện của Đ. Tại đây, T1 rủ T2 và Đ quay lại thị trấn Thổ Tang, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc để mua ma túy Heroine cùng nhau sử dụng thì Đ, T2 đồng ý. T2 điều khiển xe mô tô chở Đ, T1 ngồi sau đến thị trấn Thổ Tang, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc. Đến nơi, T1 một mình đi tìm mua ma túy, mua được ma túy, T1 cùng Đ, T2 đi đến cánh đồng thuộc thị trấn Thổ Tang, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc sử dụng hết số ma túy mà T1 vừa mua được. Sau đó, T2 chở T1 và Đ về xã Đ T, huyện Y L, tỉnh Vĩnh Phúc. Khi đi đến đường liên thôn thuộc thôn Đ T 3, xã Đ T, huyện Y L, tỉnh Vĩnh Phúc, Đ và T1 xuống xe đi bộ còn T2 phóng xe mô tô bỏ đi.Đúng lúc này, Đ và T1 bị tổ công tác Công an huyện Y L, tỉnh Vĩnh Phúc kiểm tra, phát hiện và bắt quả tang Đ đang có hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy. Quá trình bắt quả tang, cơ quan công an thu giữtại túi quần phía trước bên trái của Đ 01 gói nhỏ bên ngoài bọc nilon màu đen, bên trong đựng chất bột cục màu trắng. Đ khai nhận chất bột cục màu trắng này là ma túy của Đ; thu giữ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mastel đã cũ của Đ.

Tại Kết luận giám định số 1440/KLGĐ ngày 01 tháng 7 năm 2021, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: Chất bột cục màu trắng của mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,1452g (không phảy một bốn năm hai gam), không kể bao bì, loại Heroine.

Người làm chứng anh Lê Thanh T1 và người chứng kiến ông Văn Khắc S vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong quá trình điều tra đã khai nhận phù hợp với nội dung vụ án đã nêu trên.

Tại Cáo trạng số 54/CT-VKSYLngày 01/10/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc đã truy tố Văn Minh Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung Cáo trạng.

Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Văn Minh Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáoVăn Minh Đ từ 01 năm 06 tháng đến 01 năm 09 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 27 tháng 6 năm 2021; về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có tài sản nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; tịch thu, tiêu hủy mẫu vật hoàn trả sau giám định, mẫu vật ký hiệu A1 = 0,1086gam cùng toàn bộ bao gói được niêm phong; trả lại cho Đ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mastel, màu đen đã cũ nhưng tạm giữ để bảo đảm thi hành án.

Bị cáoVăn Minh Đ không bào chữa, không tranh luận và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để bị cáo sớm trở về gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự tố tụng của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Bị cáo, người làm chứng, người chứng kiến không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa và trong quá trình điều tra, bị cáo Văn Minh Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc đã truy tố. Xét lời nhận tội của bị cáo Văn Minh Đ tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai của người làm chứng, người chứng kiến, phù hợp với vật chứng thu giữ được và phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy có đủ chứng cứ khách quan để kết luận:

Khoảng 08 giờ 00 phút ngày 27/6/2021, Tổ công tácCông an huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc phát hiện, bắt quả tang Văn Minh Đ có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói nhỏ ma tuý(heroine) để sử dụng cho bản thân, theo kết luận có khối lượng 0,1452 gam. Vật chứng thu giữ gồm: Thu giữ tại túi quần phía trước bên trái của Văn Minh Đ 01 gói ma túy (heroine) và niêm phong theo quy định; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Mastel đã cũ.

Hành vi của bị cáo Văn Minh Đ đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Điều 249 quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

… c) Heroine,… có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.” Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về ma tuý, xâm phạm trật tự trị an, an toàn xã hội, gây nên sự bất bình trong quần chúng nhân dân. Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma tuý đang là tệ nạn xã hội có chiều hướng ngày càng gia tăng, từ tội phạm về ma tuý sẽ dẫn đến các hành vi vi phạm pháp luật khác. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và biết rõ tàng trữ trái phép chất ma túy bị pháp luật nghiêm cấm nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy cần phải xử phạt nghiêm.

[3]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xét nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Bị cáo Văn Minh Đ không có tiền án, tiền sự nhưng bị cáo là người có nhân thân xấu.Đ đã bị Tòa án nhân dân huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt về tội trộm cắp tài sản.Đ đã chấp hành xong và được xóa án tích. Tuy nhiên, Đ không lấy đó làm bài học cho bản thân, lại thực hiện hành vi phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, bị cáo có thời gian phục vụ trong quân đội nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Hội đồng xét xử xét thấy cần phải lên một mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo, có như vậy mới đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa tội phạm.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có tài sản, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để phạt tiền hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản đối với bị cáo.

[5]. Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Lê Thanh T1 và Văn Minh Đ tại thị trấn Thổ Tang, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc đã có Công văn số 452 ngày 25/8/2021 đề nghị Công an thị trấn Thổ Tang, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt vi phạm hành chính đối với T1 và Đ theo quy định tại khoản 1, Điều 21 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 11/12/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội là phù hợp với quy định của pháp luật.

[6]. Đối với Văn Như T2 là người mà Văn Minh Đ khai đã cho Đ ma túy tại khu vực thị trấn Thổ Tang, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc ngày 27/6/2021, cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh lý lịch, triệu tập nhiều lần đối với T2 nhưng T2 không có mặt tại địa phương. Do vậy,Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúctiếp tục xác minh, khi nào làm rõ, xử lý theo quy định của pháp luật là phù hợp.

[7]. Về xử lý vật chứng:

- Đối với bao gói niêm phong mẫu vật ký hiệu A1 = 0,1086gam Heroine còn lại sau giám định là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy;

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mastel, màu đen, đã cũ, quá trình điều tra xác định là của Đ, không sử dụng vào việc phạm tội nên cần trả lại cho Đ nhưng tiếp tục tạm giữ để bảo đảm thi hành án.

[8]. Về án phí: Bị cáo Văn Minh Đ phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúcđối với bị cáo là có căn cứ đúng pháp luật sẽ được Hội đồng xét xử xem xét quyết định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Văn Minh Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt Văn Minh Đ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 27/6/2021).

3. Về vật chứng:

Căn cứ khoản 1 Điều 46, khoản 1Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; khoản 1, 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu, tiêu hủy bao gói niêm phong mẫu vật ký hiệu A1 = 0,0168gam Heroine còn lại sau giám định.

Trả lại cho Văn Minh Đ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mastel, màu đen, đã cũ.

(đặc điểm vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 13/10/2021).

4. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 về án phí, lệ phí toà án, bị cáo Văn Minh Đ phải nộp 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáoCăn cứ Điều 331 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

149
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 58/2021/HS-ST

Số hiệu:58/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Lạc - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về