Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 56/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MAI CHÂU, TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 56/2022/HS-ST NGÀY 30/11/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 30 tháng 11 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 56/2022/TLST-HS ngày 13 tháng 10 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 56/2022/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 11 năm 2022 đối với bị cáo:

Phạm Minh H, sinh ngày 26 tháng 12 năm 1974, tại thành phố H, tỉnh Hòa Bình; nơi cư trú: Tổ 1x, phường Ph, thành phố H, tỉnh Hòa Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): Lớp 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Minh Q, sinh năm 1947 và bà Phạm Thị M, sinh năm 1947; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 13/12/1994 bị Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình xử phạt 12 tháng tù về tội Hủy hoại tài sản Xã hội Chủ nghĩa, án có kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, án phúc thẩm số: 352 ngày 04/3/1995 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao xử không chấp nhận kháng cáo; ngày 21/02/2001, bị Tòa án nhân thị xã Hòa Bình (nay là thành phố Hòa Bình), tỉnh Hòa Bình xử phạt 24 tháng tù giam về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; ngày 29/7/2008 bị Tòa án nhân dân thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình xử phạt 30 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Ngoài ra năm 2010 bị đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc thời hạn 24 tháng; năm 2013, 2014, 2015 bị cáo bị xử lý hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; năm 2016 bị cáo bị xử lý hành chính về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Bị cáo trình bày có sử dụng, nghiện chất ma túy; bị cáo bị tạm giữ ngày 08/5/2022 chuyển tạm giam ngày 17/5/2022. Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Phạm Minh Q, sinh năm 1947; nơi cư trú: Tổ 1x, phường Ph, thành phố H, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 13 giờ ngày 08/5/2022, tổ công tác Công an huyện Mai Châu phối hợp với Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Hòa Bình, Công an xã Đồng Tân đang làm nhiệm vụ tại xóm T, xã Đ thì phát hiện Phạm Minh H, sinh năm 1974, trú tại tổ 11, phường Ph, thành phố H, tỉnh Hòa Bình đang điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 28S1-058x theo hướng Sơn La- Hà Nội có nhiều biểu hiện nghi vấn nên đã yêu cầu dừng xe lại để kiểm tra. Quá trình kiểm tra H đã tự giác giao nộp 01 gói nilon màu đen bên trọng chứa chất bột màu trắng dạng cục. Phạm Minh H khai nhận đó là ma túy của H, tàng trữ nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng và dẫn giải đối tượng về trụ sở Công an huyện Mai Châu để xử lý theo quy định.

Tại Cơ quan điều tra H khai nhận về nguồn gốc số ma túy như sau:

Khoảng 09 giờ ngày 08/5/2022, Phạm Minh H điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 28S1- 058x đi từ nhà tại thành phố H lên huyện M để tìm mua ma túy. H điều khiển xe đi theo quốc lộ 6, hướng Sơn La đến khu vực rừng già, thuộc địa phân xã P, huyện M thì gặp một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết đang ở cạnh đường. H dừng lại hỏi và mua được ma túy của một người đó với số tiền 1.200.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, H điều khiển xe quay về nhà, khi đi đến địa phận xóm T, xã Đ huyện M thì bị tổ công tác Công an huyện Mai Châu bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng.

Tại biên bản mở niêm phong cân xác định khối lượng tang vật thu giữ của Phạm Minh H xác định: 16 viên nén màu hồng trong gói ký hiệu M1 có khối lượng 1,49 gam; Cục chất bột màu trắng trong gói ký hiệu M2 có khối lượng 10,27 gam.

Tại Kết luận giám định số: 116-A/KL-CAT-PC09 ngày 12/5/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình kết luận: Cục chất bột màu trắng trong gói ký hiệu M2 có khối lượng 10,27 gam gửi giám định là ma túy, loại Heroine.

Tại Kết luận giám định số: 116-B/KL-CAT-PC09 ngày 05/7/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình kết luận: Các viên nén màu hồng trong gói ký hiệu M1 trong phong bì niêm phong gửi giám định có khối lượng 1,49 gam là ma túy, loại Methamphetamine.

Tại bản Cáo trạng số: 56/CT-VKS-HS ngày 12 tháng 10 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Châu truy tố Phạm Minh H về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm n khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Châu luận tội giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh, hình phạt: Đề nghị tuyên bố bị cáo Phạm Minh H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Căn cứ điểm n khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt Phạm Minh H từ 06 năm 06 tháng đến 07 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 08/5/2022.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có việc làm ổn định, không có tài sản riêng, không có điều kiện thi hành nên không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo.

Về vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị tuyên:

- Tịch thu toàn bộ số ma túy thu được, sau khi giám định còn lại đã hoàn trả, để tiêu hủy.

- Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 28S1-058x, kết quả điều tra xác định được là xe thuộc sở hữu hợp pháp của ông Phạm Minh Q, sinh năm 1947; nơi cư trú: Tổ 1x, phường Ph, thành phố H, tỉnh Hòa Bình. Việc Phạm Minh H tự lấy xe đi tìm mua chất ma túy, tàng trữ để sử dụng ông Q không có lỗi, nên đề nghị trả lại cho ông Phạm Minh Q.

Về các vấn đề khác:

- Đối với người đàn ông bị cáo khai đã bán ma túy cho bị cáo, quá trình điều tra không xác định được là ai nên không có căn cứ để xử lý.

- Đề nghị áp dụng khoản 1 và khoản 3 Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Ý kiến của bị cáo: Bị cáo đã nhận được các văn bản tố tụng của Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án, quá trình điều tra, truy tố xét xử bị cáo đã được phổ biến quyền và nghĩa vụ, không bị ép cung, mớm cung, bị cáo đồng ý với nội dung Cáo trạng và Quyết định đưa vụ án ra xét xử không thắc mắc gì, bị cáo không có ý kiến tranh luận gì, bị cáo không thuê Luật sư hoặc nhờ trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho mình, bản thân do nghiện ma túy, tàng trữ để sử dụng không có mục đích gì khác. Chiếc xe mô tô biển kiểm soát 28S1-058x là của bố bị cáo, bị cáo tự ý lấy đi, bố bị cáo không biết bị cáo đi đâu làm gì mong Tòa trả lại cho bố bị cáo là ông Phạm Minh Q. Bị cáo đã thành khẩn khai báo mong được giảm nhẹ hình phạt.

Ý kiến của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Phạm Minh Q trình bày, chiếc xe mô tô biển kiểm soát 28S1-058x là của tôi do tôi mua của cháu tôi là Phạm Minh Đ từ năm 2014, con tôi Phạm Minh H tự ý lấy đi, tôi không biết con tôi lấy xe đi đâu làm gì, đề nghị Tòa trả lại cho tôi.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Những chứng cứ xác định có tội: Bị cáo bị bắt, bị lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tại cơ quan điều tra và phiên tòa hôm nay, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu được, các kết luận giám định cùng toàn bộ các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó đã có đủ căn cứ để kết luận: Khoảng 13 giờ ngày 08/5/2022 tại khu vực thuộc xóm T, xã Đ, huyện M, tỉnh Hòa Bình, các tổ công tác Công an tỉnh Hòa Bình, công an huyện Mai Châu và Công an xã Đồng Tân phát hiện bắt quả tang Phạm Minh H đang có hành vi tàng trữ 10,27 gam ma túy, loại Heroine và 1,49 gam Methamphetamine. Kết quả điều tra xác định Phạm Minh H tàng trữ ma túy để sử dụng cho bản thân, ngoài ra không có mục đích nào khác. Như vậy có đủ căn cứ xác định bị cáo Phạm Minh H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm n khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[2] Chứng cứ xác định không có tội: Không có.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội: Bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật, biết rõ tác hại của ma tuý đối với bản thân, gia đình và xã hội, trong khi Nhà nước và toàn thể xã hội đang tìm mọi biện pháp tiến tới xóa bỏ tệ nạn ma tuý ra khỏi cộng đồng bởi tác hại rất lớn của nó. Bản thân bị cáo đã từng nhiều lần bị kết án về tội phạm ma túy; bị áp dụng biện pháp chữa bệnh bắt buộc và nhiều lần bị xử lý hành chính về hành vi sử dụng, tàng trữ trái phép chất ma túy nH bị cáo không có tiến bộ không lấy đó làm bài học sửa chữa lỗi lầm, mà trái lại cố tình phạm tội, tàng trữ trái phép chất ma tuý với số lượng lớn để sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách quản lý Nhà nước về chất ma túy.

[4] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bản án đã có hiệu lực nêu trên không thể hiện bị cáo có tiền án, bị cáo đã chấp hành xong đã qua thời hạn được coi là đương nhiên được xóa án tích, như vậy bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan Điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Từ tính chất mức độ, nguyên nhân, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo nêu trên, xét cần xử phạt tù có thời hạn với mức án nghiêm khắc, nH phù hợp đối với bị cáo, nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[6] Về tội danh, điều luật áp dụng, hình phạt, hình phạt bổ sung, xử lý vật chứng, tạm giam sau khi tuyên án và về các vấn đề khác mà đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa đã có ý kiến đề nghị nêu trên. Xét thấy có căn cứ phù hợp quy định pháp luật cần xử lý, giải quyết theo hướng đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát.

[7] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[8] Về án phí: Bị cáo Phạm Minh H phải nộp án phí theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại các Điều 331, 332, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh, hình phạt:

Áp dụng điểm n khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự:

- Tuyên bố bị cáo Phạm Minh H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

- Xử phạt bị cáo Phạm Minh H 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày tạm giữ 08/5/2022.

2. Về xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số Heroine và Methamphetamine còn lại sau khi giám định đã hoàn trả được niêm phong trong 01 phong bì.

- Trả lại chiếc xe mô tô biển kiểm soát 28S1-058x cho ông Phạm Minh Quý, sinh năm 1947; nơi cư trú: Tổ 1x, phường Ph, thành phố H, tỉnh Hòa Bình.

(Các vật chứng nêu trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mai Châu, tình trạng, đặc điểm vật chứng được ghi trong Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số: 06/THA ngày 28/11/2022 giữa bên giao Công an huyện Mai Châu, bên nhận Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mai Châu).

3. Về án phí:

Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Bị cáo Phạm Minh H phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo:

Áp dụng Điều 331, 332, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình để xét xử phúc thẩm. Người vắng mặt có quyền kháng cáo kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày Bản án được niêm yết. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

17
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 56/2022/HS-ST

Số hiệu:56/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mai Châu - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/11/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về