Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 56/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÔNG HÀ, TỈNH QUẢNG TRỊ

BẢN ÁN 56/2022/HS-ST NGÀY 09/06/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 6 năm 2022, tại Nhà văn hóa khu phố Trung Chỉ, phường Đông Lương, thành phố Đông Hà xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 58/2022/HSST ngày 16 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 55/2022/QĐXXST-HS ngày 27/5/2022 đối với các bị cáo:

1. Hoàng Ngọc D, giới tính: Nam; sinh ngày 24/3/1999 tại Thừa Thiên Huế; nơi cư trú: Thôn Đ, xã M, huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 09/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Hoàng Ngọc Ch và bà Lê Thị Thu H, đều trú tại: Thôn Đ, xã M, huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế; gia đình có 04 anh, chị, em, bị cáo là con đầu; chưa có vợ, con; tiền sự: Không có.

Tiền án: Ngày 25/6/2021 bị Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà xử phạt 12 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt ngày 14/01/2022.

2. Hoàng Ngọc B, giới tính: Nam; sinh ngày 01/01/1982 tại Thừa Thiên Huế; nơi cư trú: Thôn Đ, xã M, huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 10/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Hoàng Ngọc N, hiện trú tại: Thôn Đ, xã M, huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế và bà Ngô Thị H1 (đã chết); gia đình có 03 anh, chị, em, bị cáo là con đầu; chưa có vợ, con; tiền sự: Không có.

Tiền án: Ngày 28/4/2021 bị Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà xử phạt 13 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt ngày 15/01/2022.

Về nhân thân: Ngày 09/12/2008 bị Công an huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt hành chính 350.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, đã chấp hành xong ngày 10/12/2008.

Các bị cáo bị bắt tạm giữ vào ngày 29/01/2022 đến 07/02/2022 thì chuyển tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Đông Hà đến nay, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 19 giờ ngày 29/01/2022, tại quán nhậu ở Thôn Đ, xã M, huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế, Hoàng Ngọc D rủ Hoàng Ngọc B góp tiền đi mua Heroine về sử dụng, B đồng ý. Cả hai thống nhất mỗi người góp 100.000 đồng rồi đón xe khách ra thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị (D giữ tiền). Khi đến ngã ba đường Lê Duẩn - Lý Thường Kiệt thì xuống xe và thuê xe thồ đi đến đường Nguyễn Huệ, thành phố Đông Hà. D đi vào quầy thuốc tây bên đường mua 02 bơm kim tiêm và 02 ống nước cất hiệu Novocain rồi cả hai tiếp tục đi xe thồ đến khu vực gần trường THPT Đông Hà thuộc khu phố 4, phường 1, thành phố Đông Hà. B dùng điện thoại gọi cho 01 người phụ nữ tên M (không rõ lai lịch, địa chỉ) để hỏi mua ma túy và được người này hẹn trước trường THPT Đông Hà. Sau khi gọi điện thoại xong D và B đi bộ đến điểm hẹn gặp M. D đưa tiền và nhận số ma túy được đựng trong 01 mảnh giấy vở học sinh có kẻ ô ly, sau đó , D cất giấu ở tay phải của mình và cùng B đi vào trong khu vực sân vận động thuộc khu phố 4, phường 1, thành phố Đông Hà để sử dụng. Khi cả 2 chuẩn bị sử dụng thì bị Công an thành phố Đông Hà phát hiện, bắt quả tang.

Vật chứng, tài sản thu giữ gồm:

- 01 mảnh giấy vở học sinh có kẻ ô ly, bên trong có chứa cục, hạt, bột màu trắng.

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen, số thuê bao 0975.294.648, 0369.651.030, số IMEI 1: 356613725284400, số IMEI 2: 356613727284408.

- 02 bơm kim tiêm chưa qua sử dụng.

- 02 ống nước nước cất Novocain 3% chưa qua sử dụng.

Kết luận giám định số 185/KL-KTHS ngày 07/02/2022 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Quảng Trị kết luận: Chất rắn màu trắng dạng cục, bột thu giữ của D và B có khối lượng 0,0637 gam, là ma túy loại Heroine.

Tại bản Cáo trạng số 62/CT-VKS-ĐH ngày 16 tháng 5 năm 2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà đã truy tố các bị cáo Hoàng Ngọc D và Hoàng Ngọc B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm a Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố các bị cáo Hoàng Ngọc D và Hoàng Ngọc B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng Điểm a Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt: Hoàng Ngọc D từ 13 tháng đến 14 tháng tù; Hoàng Ngọc B từ 12 tháng đến 13 tháng tù.

Về vật chứng: Tịch thu và tiêu hủy số ma túy hoàn lại sau giám định và toàn bộ bao gói được niêm phong trong phong bì ký hiệu PS3 1928872 và 02 bơm kim tiêm và 02 ống nước nước cất Novocain 3%.

Trả lại cho: bị cáo B 01 Chiếc điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen, số thuê bao 0975.294.648, 0369.651.030, số IMEI 1: 356613725284400, số IMEI 2:

356613727284408, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tính hợp pháp các các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố và xét xử, Hội đồng xét xử nhận thấy: Hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an thành phố Đông Hà, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng pháp luật.

[2]Tại phiên tòa,các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của các bị cáo phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án cũng như nội dung bản cáo trạng, đã có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 22 giờ ngày 29/01/2022, Hoàng Ngọc D và Hoàng Ngọc B bị Công an thành phố Đông Hà bắt quả tang về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” nhằm mục đích để sử dụng. Mặc dù, theo kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Quảng Trị khối lượng ma túy thu giữ của D và B có khối lượng 0,0637 gam, là ma túy loại Heroine, nhưng các bị cáo đều đã bị kết án về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” chưa được xóa án tích mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Như vậy, hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm a Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm a Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Điều luật quy định khung hình phạt: Phạt tù từ một năm đến năm năm.

[3] Xét về tính chất hành vi, vai trò của từng bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, gây ảnh hưởng nghiêm trọng về nhiều mặt cho đời sống xã hội. Các bị cáo đều đã bị Tòa án xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” mới ra tù trong một thời gian rất ngắn lại tiếp tục đi từ tỉnh Thừa Thiên Huế đến Quảng Trị để thực hiện hành vi phạm tội. Điều đó cho thấy các bị cáo hết sức coi thường pháp luật, không có ý thức tu dưỡng, rèn luyện bản thân. Vì vậy, cần phải xử phạt các bị cáo nghiêm minh với hình phạt tù có thời hạn mới có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Đây là vụ án có đồng phạm nhưng với tính chất giản đơn. Bị cáo Hoàng Ngọc D là người khởi xướng, rủ Hoàng Ngọc B góp tiền mua ma túy, là người giữ số tiền góp được, trực tiếp mua ma túy và cất giữ ma túy; Hoàng Ngọc B là đồng phạm góp tiền mua ma túy, dùng điện thoại gọi điện cho người phụ nữ tên M liên hệ mua ma túy. Như vậy, D là người khởi xướng và thực hành tích cực có vai trò chính, còn B chỉ với vai trò là người giúp sức thứ yếu.

[4] Về tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ:

Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng.

Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử thấy rằng: Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử các bị cáo thành khẩn khai báo nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

Tính đến ngày xét xử sơ thẩm thời hạn tạm giam của các bị cáo còn dưới 45 ngày nên cần phải tiếp tục ban hành quyết định tạm giam để đảm bảo thi hành án.

Quá trình điều tra không xác định được người phụ nữ tên M đã bán ma túy cho bị cáo D và B nên không có cơ sở xử lý.

[5]Về xử lý vật chứng: Ma tuý là vật cấm lưu hành, bao gói và 02 bơm kim tiêm và 02 ống nước nước cất Novocain 3% không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu và tiêu hủy;

01 Chiếc điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen, số thuê bao 0975.294.648, 0369.651.030, số IMEI 1: 356613725284400, số IMEI 2: 356613727284408 của Hoàng Ngọc B là tài sản của bị cáo không nhằm vào mục đích phạm tội nên trả lại cho bị cáo, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án;

Mỗi bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố các bị cáo Hoàng Ngọc D Hoàng Ngọc B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Căn cứ Điểm a Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1Điều 51; Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

Hoàng Ngọc D: 15 (Mười lăm) tháng tù.

Hoàng Ngọc B: 13 (Mười ba) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù của các bị cáo tính từ ngày bắt tạm giữ 29/01/2022.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điểm a, c Khoản 2, Điểm a Khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên xử: Tịch thu và tiêu hủy số ma túy hoàn lại sau giám định và toàn bộ bao gói được niêm phong trong phong bì ký hiệu PS3 1928872 và 02 bơm kim tiêm và 02 ống nước nước cất Novocain 3%.

Trả lại cho: Hoàng Ngọc B 01 chiếc điện thoại Nokia màu đen, số thuê bao 0975.294.648, 0369.651.030, số IMEI 1: 356613725284400, số IMEI 2:

356613727284408 (đã qua sử dụng), nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án;

(Vật chứng hiện có tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đông Hà theo biên bản giao, nhận vật chứng giữa cơ quan Điều tra Công an thành phố Đông Hà và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đông Hà lập ngày 18/5/2022)

3. Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, buộc mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, tính từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

104
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 56/2022/HS-ST

Số hiệu:56/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đông Hà - Quảng Trị
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về