Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 56/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ - TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 56/2022/HS-ST NGÀY 13/05/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 05 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 52/2022/TLST-HS ngày 20/04/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 54/2022/QĐXXST-HS ngày 29/04/2022; Quyết định thay đổi Hội thẩm chuẩn bị xét xử vụ án hình sự số 52A/2022/QĐ-TA ngày 06/05/2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Mạnh D, sinh năm 1986 tại Hà Nam; nơi ĐKHKTT, chỗ ở: Thôn K, xã L, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đức T và bà Nguyễn Thị C; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 18/11/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam xử phạt 10 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 20 tháng về tội: “Đánh bạc”. Ngày 13/11/2018, Công an phường Lương Khánh Thiện, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xử phạt vi phạm hành chính phạt tiền 200.000 đồng về hành vi: “Gây mất trật tự khu dân cư”. Ngày 22/11/2018, Công an phường Lương Khánh Thiện, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xử phạt vi phạm hành chính phạt tiền 200.000 đồng về hành vi: “Có lời nói thô bạo, xúc phạm danh dự, nhân phẩm người khác”; bị bắt, tạm giữ ngày 17/01/2022, tạm giam từ ngày 23/01/2022 đến nay; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Nguyễn Thành L, sinh năm 1988; địa chỉ: Tổ M, phường L, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam; có mặt.

- Người làm chứng: Ông Lê Đức T, sinh năm 1953; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ ngày 17/01/2022, Nguyễn Mạnh D điều khiển xe máy biển kiểm soát: 50A3-50… đi từ nơi ở đến khu vực chùa Lơ thuộc tổ dân phố Thá, phường Liêm Chính, thành phố Phủ Lý tìm mua ma túy để sử dụng. Tại đây, D gặp một người đàn ông tên Biển, khoảng 40 tuổi (D không biết rõ lai lịch, địa chỉ cụ thể), khi Biển rủ góp tiền đi mua ma túy để sử dụng thì D đồng ý, nói: “Em có hai trăm góp với anh” rồi lấy ra 200.000 đồng đưa cho người này. Sau đó Biển nói với D: “Mày đi cùng anh xuống Nam Định lấy hàng” thì D đồng ý, đưa xe máy cho Biển điều khiển rồi cùng Biển đi đến thành phố Nam Định. Đến nơi, Biển dừng xe lại bảo D xuống xe và nói: “Mày đứng đây đợi để anh đi lấy hàng” rồi điều khiển xe máy đi tiếp. Khoảng 10 phút sau, Biển quay lại đưa cho D 01 túi nilon màu trắng rồi nói: “Cất hàng cẩn thận”. Biết túi nilon Biển đưa cho là ma túy, D liền cầm lấy cất vào trong túi bên phải áo mưa đang mặc rồi cùng Biển đi tìm nơi để sử dụng. Khi đi đến đoạn đường Quốc lộ 21A thuộc xóm 4, xã Liêm Chung, thành phố Phủ Lý thì Biển và D bị tổ công tác Công an xã Liêm Chung, thành phố Phủ Lý phối hợp với Đội 2 Phòng ngoại tuyến (PC07) Công an tỉnh Hà Nam đang làm nhiệm vụ phát hiện thấy có biểu hiện nghi vấn nên đã yêu cầu dừng xe kiểm tra. Lợi dụng lúc sơ hở, Biển bỏ chạy thoát còn D tự giác lấy giao nộp cho lực lượng Công an 01 túi nilon màu trắng có viền xanh, kẹp nhựa màu trắng, kiểm tra bên trong thấy có chứa chất tinh thể màu trắng. Tại chỗ, D khai nhận đó là gói ma túy đá vừa mua được, cất giấu mục đích để sử dụng.

Vật chứng thu giữ của vụ án gồm: 01 túi nilon màu trắng có viền xanh, kẹp nhựa màu trắng bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01 và 01 xe máy biển kiểm soát: 50A3-50...

Tại bản Kết luận giám định số 20/PC09-MT ngày 22/01/2022, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam đã kết luận: “Mẫu tinh thể màu trắng trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng là 0,267 gam, loại Methamphetamine”.

Bản Cáo trạng số 61/CT-VKS-PL ngày 19/04/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam đã truy tố Nguyễn Mạnh D về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý thực hành quyền công tố nhà nước giữ nguyên quan điểm không thay đổi, bổ sung về nội dung đã truy tố đối với bị cáo Nguyễn Mạnh D, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38 và Điều 50 của Bộ luật Hình sự:

- Hình phạt chính: Xử phạt Nguyễn Mạnh D từ 30 tháng đến 36 tháng tù.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Xử lý vật chứng của vụ án theo quy định của pháp luật.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án anh Nguyễn Thành L trình bày, xác nhận chiếc xe máy biển kiểm soát: 50A3-50.. đã bị Cơ quan điều tra thu giữ trong vụ án là tài sản hợp pháp của anh giao cho bị cáo Nguyễn Mạnh D mượn để đi lại. Anh L đề nghị xin được nhận lại tài sản này của anh để tiếp tục sử dụng.

Bị cáo Nguyễn Mạnh D đã khai nhận toàn bộ hành vi như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã truy tố. Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được Cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[3] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Mạnh D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với các chứng cứ của vụ án được thẩm tra tại phiên tòa như biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng; kết luận giám định về chất ma túy, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ của vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 17/01/2022, tại khu vực xóm 4, xã Liêm Chung, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, Nguyễn Mạnh D bị lực lượng Công an xã Liêm Chung, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam phát hiện, bắt giữ quả tang đang cất giấu trái phép 0,267 gam chất ma túy loại Methamphetamine, mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhân thân xấu do đã từng bị kết án về tội: “Đánh bạc” (đã được xóa án tích), bản thân đã từng nhiều lần bị xử phạt vi phạm hành chính về các hành vi: “Gây mất trật tự khu dân cư” và “Có lời nói thô bạo, xúc phạm danh dự, nhân phẩm người khác” (đều đã hết thời hạn coi như chưa bị xử lý vi phạm hành chính).

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định của Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; có người thân (bố đẻ) là người có công được nhà nước tặng thưởng kỷ niệm chương chiến sỹ Trường Sơn và được hưởng chế độ trợ cấp của quân nhân tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước nên bị cáo sẽ được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt:

Hình phạt chính: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, mức độ nghiêm trọng, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy và các chất gây nghiện trực tiếp là các hoạt động cất giữ, tàng trữ chất ma túy, gây mất trật tự, an toàn cho xã hội, làm nảy sinh tệ nạn ma túy là mầm mống, nguyên nhân phát sinh các tội phạm khác. Vì vậy, cần có hình phạt nghiêm minh, tương xứng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm bị cáo đã thực hiện mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo ý thức tuân thủ, chấp hành pháp luật đồng thời nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm.

Hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định và tài sản riêng; phạm tội không vì mục đích vụ lợi nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền, tịch thu tài sản…) đối với bị cáo.

[6] Đối với người đàn ông khoảng 40 tuổi tên Biển theo bị cáo khai là người đã góp tiền và trực tiếp cùng bị cáo đi mua ma túy sau đó đưa cho bị cáo cất giấu để sử dụng, do quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã áp dụng các biện pháp nghiệp vụ phối hợp để điều tra, xác minh nhưng không xác định được nhân thân, lai lịch, địa chỉ của người này, ngoài lời khai duy nhất của bị cáo không có tài liệu, chứng cứ nào khác để chứng minh nên Cơ quan điều tra không có đủ cơ sở để xem xét, xử lý là có căn cứ.

[7] Về xử lý vật chứng đã thu giữ:

- Đối với chiếc xe máy biển kiểm soát: 50A3-50.., quá trình điều tra đã xác định là tài sản hợp pháp của anh Nguyễn Thành L (em trai bị cáo) giao cho bị cáo mượn để đi lại, do anh L không biết bị cáo đã sử dụng xe làm phương tiện phạm tội, tại phiên tòa đã đề nghị xin được trả lại tài sản này để sử dụng nên sẽ trả lại chiếc xe máy cho anh L.

- Đối với toàn bộ số Methamphetamine hoàn trả sau giám định cùng bao gói là vật cấm tàng trữ, lưu hành và không có giá trị sử dụng sẽ tịch thu, tiêu hủy.

[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án thực hiện quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 47 và Điều 50 của Bộ luật Hình sự; Điều 106, khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136, các Điều 329, 331, 332 và 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật Phí và Lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Mạnh D phạm tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo 33 (ba mươi ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ 17/01/2022.

2. Xử lý vật chứng:

- Trả lại cho anh Nguyễn Thành L 01 (một) xe máy nhãn hiệu HONDA, biển kiểm soát: 50A3 – 50.., số máy: C100ME - 0239389, số khung: CI00M - 0239389, (xe cũ đã qua sử dụng).

- Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) phong bì đã niêm phong mặt trước ghi:“Mẫu vật hoàn trả QT01”, số 20/PC09-MT có chữ ký và dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam.

Tình trạng, đặc điểm vật chứng theo Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý ngày 04/05/2022.

3. Án phí: Bị cáo Nguyễn Mạnh D phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 56/2022/HS-ST

Số hiệu:56/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về