Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 54/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH SƠN, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 54/2022/HS-ST NGÀY 29/11/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 11 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh Phú Thọ, Tòa án nhân dân huyện S xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 54/2022/TLST-HS ngày 10/10/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 54/QĐXXST-HS ngày 16/11/2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Đinh Công Q, sinh ngày 04/4/1990; Tên gọi khác: Không; Nơi ĐKHKTT: Xóm Mít 2, xã T, huyện S, tỉnh Phú Thọ; Nơi ở hiện nay: Khu S, xã Yên Lương - S - Phú Thọ; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 1/12; Dân tộc: Mường; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Bố đẻ: Đinh Công M (Đã chết); Mẹ đẻ : Bùi Thị H, sinh năm 1956. Vợ, con: chưa có; Anh, chị, em ruột: Gia đình có 05 anh em, bị cáo là con thứ hai.

- Tiền án: Có 01 tiền án: Bản án số: 192/2009/HSST ngày 26/6/2009 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội xử phạt Đinh Văn Q (Đinh Công Q) 7 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt chính. Đối với số tiền phải bồi thường cho các bị hại, do các bị hại chưa có đơn yêu cầu, cơ quan Thi hành án chưa thụ lý giải quyết nên Q chưa thi hành; bị cáo chưa thi hành số tiền 3.750.000đ phạt sung quỹ Nhà nước, 50.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm và 4.216.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án hình sự. Đến ngày phạm tội bị cáo chưa được xóa án tích.

- Tiền sự: Không;

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 27/6/2022 đến ngày 30/6/2022 chuyển tạm giam. Hiện bị cáo đang thi hành Lệnh tạm giam tại Trại tạm giam - Công an tỉnh Phú Thọ.

(Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

*Người bào chữa cho bị cáo : Bà Đinh Thị H - Trợ giúp viên pháp lý nhà nước tỉnh Phú Thọ (Vắng mặt, có đơn xin được xét xử vắng mặt)

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bà Bùi Thị L, Sinh năm 1976 ( Có mặt).

Địa chỉ: Khu S, xã Yên Sơn, huyện S, tỉnh Phú Thọ

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 15 giờ 10 phút ngày 27/6/2022, Tổ công tác của Công an huyện S phối hợp cùng Công an xã Yên Lãng, huyện S đang thực hiện nhiệm vụ tại khu vực xóm Pheo, xã Yên Lãng, huyện S, tỉnh Phú Thọ phát hiện Đinh Công Q đang điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Vision, màu trắng, BKS: 19C1 - xxxxx đi từ hướng xã Yên Lương đi xã Yên Sơn có biểu hiện liên quan đến ma tuý nên tiến hành kiểm tra. Quá trình kiểm tra, Q đã tự nguyện giao nộp 01 (một) gói nilon màu trắng có khuy bấm, trên túi có in nhiều hoa văn màu vàng, bên trong chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng, Q đang cầm trên tay phải. Q tự khai đây là ma túy “đá” của Q mang theo với mục đích để sử dụng cho bản thân. Q tự nguyện giao nộp 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 1280, màu xanh-đen, đã cũ, bên trong gắn sim của số điện thoại 0377.806.xxx và 01 (một) ví giả da, màu nâu, đã cũ, bên trong có số tiền 1.310.000đ (Một triệu ba trăm mười nghìn đồng) đang để trong túi quần bên trái, phía trước Q đang mặc. Tổ công tác đã tiến hành niêm phong 01 (một) gói nilon màu trắng có khuy bấm, trên túi có in nhiều hoa văn màu vàng, bên trong chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng thu giữ của Đinh Công Q vào 01 (một) bì giấy dán kín.

Tiến hành test nhanh chất ma túy đối với Đinh Công Q cho kết quả “Dương tính” với chất ma túy.

Trong quá trình điều tra, Đinh Công Q khai nhận: Khoảng 13 giờ ngày 27/6/2022, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên Q đã sử dụng số điện thoại 0377.806.xxx gọi điện đến số điện thoại 0344.477.xxx của một người thanh niên tên là “B” quen biết từ trước (Q không biết rõ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể của người này) để hỏi mua ma túy “đá” với số tiền 300.000đ. Người thanh niên tên “B” đồng ý và hẹn gặp Q ở khu vực thác nước thuộc xóm Pheo, xã Yên Lãng, huyện S, tỉnh Phú Thọ để giao dịch mua bán ma túy. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày, Q điều khiển xe máy nhãn hiệu HONDA VISION, màu trắng, mang BKS: 19C1 - xxxxx (Chiếc xe máy là của chị Bùi Thị L - SN: 1976, HKTT: Khu S, xã Yên Lương, huyện S, tỉnh Phú Thọ; chị L là Dì ruột của Q. Ngày 27/6/2022, Đinh Công Q mượn xe máy của chị L để đi chơi, chị L không biết việc Q sử dụng xe máy để đi mua ma túy) đến khu vực xóm Pheo, xã Yên Lãng như đã hẹn. Tại đây, Q gặp người thanh niên tên “B” đang đứng một mình ở lề đường. Q lại gần và đưa cho người thanh niên tên “B” số tiền 300.000đ gồm một tờ tiền mệnh giá 100.000đ và một tờ tiền mệnh giá 200.000đ. Người thanh niên “B” nhận tiền và đưa cho Q cầm 01 (một) gói nilon màu trắng có khuy bấm, trên túi có in nhiều hoa văn màu vàng, bên trong chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng, Q xác định đây là ma túy “đá”. Sau khi mua được ma túy thì Q điều khiển xe máy đi về nhà, còn người thanh niên tên “B” đi đâu không rõ. Khi Q đi đến khu vực xóm Pheo, xã Yên Lãng, huyện S thì gặp Tổ công tác của Công an huyện S và Công an xã Yên Lãng dừng xe kiểm tra. Quá trình kiểm tra, biết không thể chối cãi được nên Q đã tự nguyện giao nộp 01 (một) gói ma túy “đá” đang cầm trên tay phải mà Q vừa mua được cho Tổ công tác như đã nêu trên. Số tiền 300.000 đồng dùng để mua ma túy là do Q lao động tích cóp mà có. Số tiền 1.310.000 đồng thu giữ trên người bị can là tiền của Q do lao động tích cóp mà có, không sử dụng vào việc phạm tội.

Tại bản kết luận giám định số: 849/KL-KTHS ngày 29/6/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Phú Thọ kết luận:

- Chất rắn dạng tinh thể màu trắng chứa trong 01 gói nilon gửi đến giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là 0,245 gam * Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II, số thứ tự: 323, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Sau khi nhận mẫu giám định, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ đã hoàn trả: Một bì giấy số 849/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ.

Theo danh chỉ bản và trích lục tiền án tiền sự của Đinh Công Q do Công an tỉnh Phú Thọ cung cấp bị cáo Đinh Công Q có 01 tiền án:

Bản án số 192/2009/HSST ngày 26/6/2009 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội xử phạt Đinh Văn Q (Đinh Công Q) 7 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt chính.

Theo bản án này bị cáo Đinh Văn Q sinh ngày 04/04/1990 có tên gọi khác là Đinh Công Q. Quá trình điều tra, Cơ quan CSĐT - Công an huyện S xác định bị cáo Đinh Công Q do Cơ quan CSĐT - Công an huyện S đang thụ lý, điều tra (Sinh ngày 04/4/1990, Nơi thường trú: xóm Mít 2, xã Tân Lập, huyện S, tỉnh Phú Thọ; Trình độ học vấn: 01/12; có bố là Đinh Công Mai, mẹ là Bùi Thị Hiền và không có tên gọi khác). Để phục vụ yêu cầu điều tra vụ án, Cơ quan CSĐT - Công an huyện S đã đề nghị Phòng hồ sơ nghiệp vụ (PV06) Công an thành phố Hà Nội cung cấp mẫu Danh chỉ bản số 710 do Công an quận Hoàn Kiếm - Hà Nội lập ngày 04/11/2008 ghi họ tên: Đinh Văn Q (SN 1990, Nơi ĐKNKTT: Đội 6, Tân Lập, S, Phú Thọ). Ngày 25/8/2022, Cơ quan CSĐT - Công an huyện S đã Trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Phú Thọ giám định đường vân được in trong mẫu Danh chỉ bản số 710 do Công an quận Hoàn Kiếm - Hà Nội lập ngày 04/11/2008 và mẫu Danh chỉ bản số 131 do Công an huyện S - Phú Thọ lập ngày 04/7/2022 đối với Đinh Công Q. Tại Kết luận giám định số 1179/KLGĐ ngày 30/8/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Phú Thọ kết luận: Các dấu vân tay in trên danh chỉ bản số 710 ghi tên Đinh Văn Q; Tên gọi khác: Đinh Công Q, sinh năm 1990; Nơi ĐKNKTT: Đội 6, Tân Lập, S, Phú Thọ do Công an quận Hoàn Kiếm - Hà Nội lập ngày 04/11/2008 so với các dấu vân tay in tại các ô trên chỉ bản số 131 ghi tên Đinh Công Q, sinh năm 1990; Nơi cư trú: xã Tân Lập - S - Phú Thọ do Công an huyện S, tỉnh Phú Thọ lập ngày 04/7/2022 là của cùng một người in ra.

Như vậy Đinh Công Q là bị cáo Đinh Văn Q trong bản án hình sự nêu trên.

Tại bản cáo trạng số: 56/CT – VKS - ThS ngày 08/10/2022 Viện kiểm sát nhân dân huyện S đã truy tố bị cáo Đinh Công Q về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện S giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 - Bộ luật hình sự năm 2015;

Xö ph¹t: Đinh Công Q tõ 30 ®Õn 36 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ từ ngày 27/6/2022. Miễn áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo Đinh Công Q.

* Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Khoản 1 Điều 47- BLHS; khoản 2 Điều 106 - BLTTHS, tịch thu tiêu hủy các vật chứng gồm:

- Bì giấy số 849/KL KTHS ngày 29/6/2022 của Phòng kỹ thuật công an tỉnh Phú Thọ ghi: Hoàn lại 0,213 gam chất rắn dạng tinh thể màu trắng cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định được dán kín, niêm phong trong 01 bì giấy bên ngoài được đóng 05 hình dấu tròn màu đỏ của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Phú Thọ và chữ ký của các thành phần liên quan tại các mép dán.

Tịch thu bán sung ngân sách nhà nước - 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1280, màu xanh-đen, đã cũ, bên trong gắn sim của số điện thoại 0377.806.xxx thu giữ của Đinh Công Q, là công cụ Q sử dụng liên lạc mua bán ma túy;

Trả lại cho Đinh Công Q số tiền 1.310.000đ (một triệu ba trăm mười nghìn đồng) là tài sản của Đinh Công Q không sử dụng vào việc phạm tội nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án;

- 01 (một) ví giả da màu nâu, đã cũ, là tài sản của Đinh Công Q không sử dụng vào việc phạm tội;

Xác nhận: Ngày 14/9/2022 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện S đã trả lại cho bà Bùi Thị L 01 xe máy nhãn hiệu HONDA VISION, màu trắng, mang BKS: 19C1 - xxxxx, đã cũ.

tòa.

Bị cáo Q không tranh luận gì với Luận tội của Kiểm sát viên tại phiên - Người bảo vệ quyền và lợi ích cho bị cáo có đơn xin xét xử vắng mặt và có gửi bài bào chữa cho bị cáo Q. Bà H nhất trí với cáo trạng đã truy tố bị cáo Q và đề nghị HĐXX xem xét đến tính nhân đạo, khoan hồng của pháp luật cho bị cáo Q được hưởng mức án thấp nhất để bị cáo Q để bị cáo có cơ hội sửa chữa lỗi lầm của bản thân, phấn đấu trở thành người có ích cho xã hội.

Tại lời nói sau cùng, bị cáo rất hối hận về hành vi vi phạm pháp luật của bị cáo, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm được trở về cộng đồng và sống có ích cho gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện S, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện S, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng theo quy định của pháp luật.

[2]. Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, thừa nhận Cáo trạng truy tố là đúng người, đúng tội, không oan sai. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với Biên bản kiểm tra người có hành vi vi phạm pháp luật, Bản kết luận giám định, lời khai người chứng kiến cũng như các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Đinh Công Q là người đã thành niên, do nghiện ma túy nên hồi 15 giờ 10 phút ngày 27/6/2022, tại xóm Pheo, xã Yên Lãng, huyện S, tỉnh Phú Thọ, Đinh Công Q đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,245 gam ma túy loại Methamphetamine với mục đích để sử dụng cho bản thân. Hành vi phạm tội của Đinh Công Q đã bị Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện S kiểm tra phát hiện. Hành vi đó của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Khẳng định Cáo trạng số 56/CT- VKS-ThS, ngày 08/10/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện S, tỉnh Phú Thọ và Bản luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật [3]. Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng bởi hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, các chất gây nghiện, chất hướng thần. xâm phạm trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc tàng trữ ma túy trái phép bị pháp luật nghiêm cấm. Bị cáo nhận thức được sự tác hại của ma túy nhưng để thỏa mãn nhu cầu của bản thân, bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Xét thấy cần xử phạt bị cáo hình phạt nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung tội phạm.

[4]. Về tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trước lần phạm tội này, năm 2009 bị cáo đã bị Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm thành phố Hà Nội xử phạt 07 (Bảy) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt chính. Đối với số tiền phải bồi thường cho các bị hại, do các bị hại chưa có đơn yêu cầu, cơ quan thi hành án chưa thụ lý giải quyết nên Q chưa thi hành; bị cáo chưa thi hành số tiền 3.750.000đ phạt sung quỹ Nhà nước, 50.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm và 4.216.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án hình sự. Hiện nay bị cáo chưa được xóa án tích, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội về ma túy nên bị cáo phải chịu 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, Điều 51 bộ luật hình sự 2015 .

Căn cứ nhân thân, tính chất mức độ thực hiện hành vi phạm tội cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Những phân tích, đánh giá về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo của Kiểm Sát Viên tại phiên tòa là có căn cứ. Xét thấy bản thân bị cáo là người nghiện ma túy, nên cần phải áp dụng hình phạt tù trên mức đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa và cách ly bị cáo ra khỏi cộng đồng xã hội một thời gian, để bị cáo tự cai nghiện, đồng thời giáo dục cải tạo bị cáo thành công dân sống có ích cho gia đình và xã hội.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 thì bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Theo kết quả xác minh của cơ quan điều tra và tại phiên tòa đã làm rõ, bị cáo không có thu nhập ổn định, không có tài sản gì nên Hội đồng xét xử miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[6]. Về vật chứng vụ án: Ma túy do Nhà nước độc quyền quản lý, nghiêm cấm mọi hành vi lưu hành của các cá nhân, tổ chức; Vật chứng không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy theo qui định pháp luật, gồm:

- 01 bì giấy số số 849/KL KTHS ngày 29/6/2022 của Phòng kỹ thuật công an tỉnh Phú Thọ. Bì ghi: Hoàn lại 0,213 gam chất rắn dạng tinh thể màu trắng cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định, được niêm phong dán kín. Mặt sau của bì giấy có chữ ký của các thành phần liên quan và 05 hình dấu tròn đỏ của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ tại các mép dán kín;

- 01 sim điện thoại số thuê bao 0377.806.xxx lắp trong điện thoại di động thu giữ của bị cáo Q.

Tịch thu bán nộp ngân sách Nhà nước vật chứng là công cụ phương tiện phạm tội còn giá trị sử dụng:

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1280, màu xanh đen, đã cũ, thu giữ của Đinh Công Q, là công cụ Q dùng liên lạc để mua ma túy;

c đồ vật Cơ quan điều tra đã thu giữ nhưng không liên quan đến tội phạm, trả cho chủ sở hữu hợp pháp:

- Trả lại cho bị cáo Đinh Công Q số tiền 1.310.000đ (Một triệu ba trăm nghìn đồng), là tài sản của Đinh Công Q, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án;

01 ví giả da màu nâu, đã cũ.

Đối với 01 xe máy nhãn hiệu HONDA VISION, màu trắng, mang BKS:

19C1 - xxxxx, đã cũ. Quá trình điều tra và tại phiên tòa đã làm rõ chiếc xe máy trên là tài sản thuộc sở hữu của bà Bùi Thị L, cho bị cáo Q mượn ngày 27/6/2022. Bà L không biết Q sử dụng xe vào việc đi mua ma túy nên Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện S đã trả lại chiếc xe mô tô có đặc điểm nêu trên cho chị L ngày 14/9/2022 là hợp pháp.

Vật chứng là tiền được chuyển đến tài khoản 3941.0.9044309.00000 tại kho bạc Nhà nước huyện S; Vật chứng là đồ vật được tạm giữ tại kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự huyện S.

[7] Các nội dung khác:

Đối với người thanh niên tên là B đã bán ma túy cho Đinh Công Q vào ngày 27/6/2022: Quá trình điều tra xác định đối tượng này sử dụng số điện thoại 0344.477.xxx để liên lạc mua bán ma túy với Q. Số điện thoại được đăng ký đứng tên anh Đinh Văn T. Cơ quan điều tra đã cho bị cáo Q nhận dạng qua ảnh xác định anh T không phải là người tên là B đã bán ma túy cho Q. Do anh T không có mặt ở địa phương, Cơ quan điều tra chưa làm việc được nên không có căn cứ xác định số điện thoại 0344.477.xxx do ai sử dụng. Do đó, Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, làm rõ và giải quyết theo quy định của pháp luật khi có đủ căn cứ là phù hợp.

[8]. Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

c¸c lÏ trªn:

QUYẾT ĐỊNH

 Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h, khoản 1 Điều 52, Điều 38, - Bộ luật hình sự năm 2015;

1. Tuyên bố: Bị cáo Đinh Công Q phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Đinh Công Q 42 (bốn mươi hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ là ngày 27/6/2022.

Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo Đinh Công Q.

2. Về xử lý vật chứng:

Căn cứ Điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Tịch thu tiêu hủy vật chứng gồm:

- 01 bì giấy số 849/KL KTHS ngày 29/6/2022 của Phòng kỹ thuật công an tỉnh Phú Thọ ghi: Hoàn lại 0,213 gam chất rắn dạng tinh thể màu trắng cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định, được niêm phong dán kín. Mặt sau của bì giấy có chữ ký của các thành phần liên quan và 05 hình dấu tròn đỏ của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ tại các mép dán kín;

- 01 sim điện thoại số thuê bao 0377.806.xxx lắp trong điện thoại di động thu giữ của bị cáo Q.

Tịch thu bán nộp ngân sách Nhà nước các vật chứng gồm:

01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1280, màu xanh đen, đã cũ, thu giữ của Đinh Công Q.

Trả lại các tài sản không liên quan đến tội phạm cho chủ sở hữu hợp pháp:

- Trả lại cho bị cáo Đinh Công Q số tiền 1.310.000 đồng, là tài sản của Đinh Công Q, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án; 01 ví giả da màu nâu, đã cũ.

Xác nhận: Ngày 14/9/2022 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện S đã trả lại cho bà Bùi Thị L 01 xe máy nhãn hiệu HONDA VISION, màu trắng, mang BKS: 19C1 - xxxxx, đã cũ.

Vật chứng là tiền được chuyển đến tài khoản 3941.0.9044309.00000 tại kho bạc Nhà nước huyện S theo giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 19/10/2022; Vật chứng là đồ vật được tạm giữ tại kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự huyện S theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 13/10/2022.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 qui định về mức thu,miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Đinh Công Q phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Căn cứ: Điều 333 Bộ luật tố tụng Hình sự 2015.

Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

35
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 54/2022/HS-ST

Số hiệu:54/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Sơn - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/11/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về