Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 52/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỔ YÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 52/2022/HS-ST NGÀY 18/05/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 5 năm 2022, tại Hội trường Ủy ban nhân dân xã Vạn Phái, thành phố Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên. Tòa án nhân dân thành phố Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 42/2022/TLST-HS, ngày 18 tháng 4 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 55/2022/QĐXXST- HS ngày 05 tháng 5 năm 2022, đối với bị cáo:

NGUYN ĐỨC N, tên gọi khác: Không; Sinh năm 199x, tại: TN.

Nơi cư trú: Xóm VK 11, xã BT, huyện ĐT, tỉnh TN; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Đảng, đoàn thể: Không; con ông: Nguyễn Văn L; con bà: Lê Thị H; Chưa có vợ con.

- Tiền án, Tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 05/01/2022, đến ngày 14/01/2022 chuyển tạm giam cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thị xã (nay là thành phố) Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên. (Có mặt).

- Người chứng kiến:

1. Ông Lê Văn C, sinh năm 197x (Vắng mặt).

Nơi cư trú: Xóm XH 3, xã TC, thành phố PY, TN.

2. Ông Nguyễn Văn X, sinh năm 198x (Vắng mặt).

Nơi cư trú: Xóm XH 3, xã TC, thành phố PY, TN.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 13 giờ 30 phút ngày 05/01/2022, Công an xã TC, thị xã (nay là thành phố) PY nhận được tin báo của quần chúng nhân dân về việc tại khu vực ngã ba xóm AH, xã TC, PY có đối tượng có biểu hiện nghi vấn tàng trữ trái phép chất ma tuý. Tổ công tác Công an xã TC đã đến địa điểm trên và phát hiện Nguyễn Đức N đang có biểu hiện nghi vấn. Qua kiểm tra, N tự giác giao nộp từ túi quần bò bên phải đằng trước đang mặc 01 túi nilon màu trắng viền màu đỏ bên trong có chứa chất rắn màu trắng đục và từ trong tay phải ra 01 bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long bên trong có chứa 05 túi nilon màu trắng viền màu xanh, bên trong mỗi túi đều có chứa chất rắn màu trắng đục, theo N khai số chất rắn màu trắng đục trên là ma tuý N mua về để sử dụng. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong số vật chứng do N giao nộp rồi bàn giao đối tượng, hồ sơ cùng vật chứng đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã (nay là thành phố) PY để giải quyết theo quy định.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã PY phối hợp với Phòng Kỹ thuật hình sự công an tỉnh TN tiến hành mở niêm phong, cân khối lượng toàn bộ số chất rắn màu trắng đục thu giữ của Nguyễn Đức N. Kết quả:

05 túi nilon màu trắng có viền xanh, bên trong mỗi túi đều chứa chất rắn màu trắng đục có khối lượng là 0,340 gam (niêm phong ký hiệu là K1), 01 túi nilon màu trắng có viền đỏ, bên trong chứa chất rắn màu trắng đục có khối lượng là 0,050 gam (niêm phong ký hiệu là K2), sau đó lấy toàn bộ số chất rắn màu trắng đục cho vào phong bì gửi giám định.

Tại bản Kết luận giám định số 164/KL-KTHS ngày 13/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TN kết luận: Chất rắn màu trắng đục trong phong bì ký hiệu K1 gửi giám định là là chất ma tuý, loại Heroine, có khối lượng 0,340 gam và chất rắn màu trắng đục trong phong bì ký hiệu K2 gửi giám định là là chất ma tuý, loại Heroine, có khối lượng 0,050 gam.

Quá trình điều tra, Nguyễn Đức N khai nhận: Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 05/01/2022 N đi nhờ xe của người đi đường từ ngã tư PY đến khu vực KT, xã TT, thị xã PY để mua ma tuý về sử dụng. Khi đến xóm KT, N xuống xe và gặp một người nam giới (không biết tên tuổi, địa chỉ) tại hành lang đường Quốc lộ 3 cũ. N lấy số tiền 500.000 đồng đưa cho người nam giới đó thì người đó đưa cho N 05 túi nilon, bên trong mỗi túi có chứa chất rắn màu trắng đục là ma tuý loại Heroine. Sau đó, N đi nhờ xe của người đi đường đến khu vực xóm AH, xã TC, PY. Trên đường đi, N đã lấy 01 túi ma tuý trong số 05 túi ma tuý đã mua san sang 01 túi nilon khác rồi đút túi nilon mới san vào túi quần bò đang mặc, số ma túy trong 05 túi nilon còn lại N để trong bao thuốc lá Thăng Long. Khi đang đứng đợi bạn đón ở xóm AH, xã TC, thị xã PY thì bị lực lượng Công an phát hiện và kiểm tra như nêu trên.

Vật chứng thu giữ: 01 (Một) phong bì niêm phong ký hiệu K1 bên trong có 0,327 gam ma tuý loại Heroine và vỏ bao mẫu hoàn lại sau giám định; 01 (Một) phong bì niêm phong ký hiệu K2 bên trong có 0,033 gam ma tuý loại Heroine và vỏ bao mẫu hoàn lại sau giám định; 01 (Một) phong bì niêm phong ký hiệu L, bên trong đựng vỏ bao mẫu lưu kho, được chuyển đến kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự thị xã (nay là thành phố) PY chờ xử lý.

Do có hành vi nêu trên, nên tại bản cáo trạng số: 53/CT-VKSPY, ngày 14/4/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố PY, tỉnh TN đã truy tố bị cáo Nguyễn Đức N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Kết thúc phần thẩm vấn công khai Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố PY thực hành quyền công tố tại phiên tòa trình bày bản luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố như bản cáo trạng số: 53/CT-VKSPY, ngày 14/4/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố PY, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” 2. Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 .

Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Đức N mức án từ 24 đến 30 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 05/01/2022.

3. Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

4. Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu K1 bên trong có 0,327 gam ma tuý loại Heroine và vỏ bao mẫu hoàn lại sau giám định; 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu K2 bên trong có 0,033 ga m ma tuý loại Heroine và vỏ bao mẫu hoàn lại sau giám định; 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu L, bên trong đựng vỏ bao mẫu lưu kho .

Ngoài ra, còn đề nghị buộc bị cáo phải chịu án hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Trong phần tranh luận, bị cáo không tranh luận gì với quan điểm đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát về tội danh, mức hình phạt đề nghị áp dụng.

Nói lời sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử xét xem cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để sớm hòa nhập cộng đồng, thành người có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố PY, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố PY, Kiểm sát viên trong điều tra, truy tố: Trong quá trình điều tra, truy tố Cơ quan điều tra Công an thành phố PY, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố PY, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiế n hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Đức N tại phiên toà hôm nay là hoàn toàn khách quan, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập hợp lệ trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định, biên bản thu giữ vật chứng, lời khai của những người tham gia tố tụng khác, Hội đồng xét xử c ó đủ cơ sở kết luận: Hồi 13 giờ 30 phút ngày 05/01/2022, tại khu vực xóm AH, xã TC, PY, TN; Nguyễn Đức N đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,390 gam ma túy, loại Heroine, mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị Công an xã TC, thị xã (nay là thành phố) PY bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Hành vi, ý thức của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Do đó, Bản cáo trạng số 53/CT - VKSPY ngày 14/4/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố PY đã truy tố bị cáo với tội danh và điều luật đã viện dẫn là có căn cứ.

Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định:

“Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:...

c) Heroine... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

[3]. Xét tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân, động cơ dẫn đến việc phạm tội , Hội đồng xét xử thấy:

Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc loại tội nghiêm trọng, xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương và là mầm mống phát sinh các loại tội phạm khác, nên cần phải xử lý nghiêm bằng pháp luật hình sự nhằm mục đích răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung.

Nguyên nhân, động cơ dẫn đến việc phạm tội là do bị cáo không chịu lao động, tu dưỡng, rèn luyện nên đã sớm mắc nghiện ma túy, để phục vụ cho nhu cầu của bản thân, bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội như trên.

[4]. Xét các yếu tố về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy:

- Về nhân thân: Qua phân tích các yếu tố về nhân thân người phạm tội, Hội đồng xét xử thấy: Nguyễn Đức N sinh ra và lớn lên tại huyện ĐT, tỉnh TN, từ nhỏ được gia đình nuôi ăn học đến hết lớp 10/12, sau đó nghỉ học ở nhà, lao động tự do tại địa phương. Quá trình sinh sống tại địa phương bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Do đó, Hội đồng xét xử nhận định bị cáo là người có nhân thân tốt.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, do đó, Hội đồng xét xử có căn cứ cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đó là: “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[5]. Xét tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, các yếu tố về nhân thân khi quyết định hình phạt đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội thuộc loại tội nghiêm trọng, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, chính trị tại địa phương và làm phát sinh thêm các loại tội phạm khác nên cần áp dụng hình phạt tù, cách ly bị cáo ra hỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo mới đảm bảo được tính nghiêm minh của pháp luật, đồng thời răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung, mức án mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo là phù hợp được chấp nhận.

[6]. Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 còn quy định:

“…5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản…” Tuy nhiên, qua xem xét các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, xét thấy bị cáo là người nghiện ma túy, không có việc làm, không có thu nhập ổn định, phạm tội không vì mục đích vụ lợi nên miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho bị cáo.

[7]. Về vật chứng vụ án:

- Đối với 01 (Một) phong bì ký hiệu niêm phong có dấu đỏ ký hiệu K1 ghi hoàn trả 0,327 gam mẫu K1 còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu K1;

01 (Một) phong bì ký hiệu niêm phong có dấu đỏ ký hiệu K2 ghi hoàn trả 0,033 gam mẫu K2 còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu K2; 01 (Một) phong bì niêm phong có dấu đỏ ký hiệu L ghi mẫu lưu kho – Xác định là vật cấm lưu thông, không còn giá trị sử dụng nên cần xử lý tịch thu tiêu hủy.

[8]. Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9]. Quyn kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[10]. Về các vấn đề khác của vụ án: Trong vụ án này, theo Nguyễn Đức N khai về nguồn gốc số Heroine thu giữ của N là do N mua của một người nam giới không quen biết tại hành lang đường Quốc lộ 3 cũ thuộc xóm KT, xã TT, thành phố PY. Do người này đội mũ lưỡi trai, đeo khẩu trang kín nên N không biết là ai. Cơ quan điều tra sẽ tiếp tục điều tra, xác minh xử lý sau là phù hợp, có căn cứ.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 47; điểm s khoản 1 Điều 51;

Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Căn cứ các Điều 106, Điều 136, Điều 329, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức N phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

2. Về hình phạt:

2.1 Hình phạt chính: Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức N 26 (Hai mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 05/01/2022.

2.2 Về Hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo Nguyễn Đức N.

- Tiếp tục tạm giam bị cáo Nguyễn Đức N 45 (Bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo công tác thi hành án.

3. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) phong bì ký hiệu niêm phong có dấu đỏ ký hiệu K1 ghi hoàn trả 0,327 gam mẫu K1 còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu K1; 01 (Một) phong bì ký hiệu niêm phong có dấu đỏ ký hiệu K2 ghi hoàn trả 0,033 gam mẫu K2 còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu K2; 01 (Một) phong bì niêm phong có dấu đỏ ký hiệu L ghi mẫu lưu kho.

Tình trạng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thành phố PY với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố PY ngày 22/4/2022.

4. Về Án phí: Bị cáo Nguyễn Đức N phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách Nhà nước.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Đức N được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

125
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 52/2022/HS-ST

Số hiệu:52/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phổ Yên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về