Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 50/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÙ YÊN, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 50/2023/HS-ST NGÀY 22/06/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 6 năm 2023, tại điểm cầu trung tâm trụ sở Toà án nhân dân huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La và điểm cầu thành phần nhà tạm giữ Công an huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La xét xử trực tuyến sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 38/2023/TLST-HS ngày 04 tháng 4 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 41/2023/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 5 năm 2023; Thông báo mở lại phiên toà số 06/TB-TA ngày 16 tháng 6 năm 2023 đối với bị cáo:

Trần Quang L (tên gọi khác: không), sinh ngày 01 tháng 5 năm 1965 tại huyện YL, tỉnh VP; nơi ĐKHKTT: thôn ĐL3, xã ĐV, huyện YL, tỉnh VP; nơi tạm trú và chỗ ở hiện nay: tiểu khu X, thị trấn Phù Yên, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): 07/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Đảng phái, đoàn thể: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Quang T (đã chết) và bà Phạm Thị H (đã chết); có vợ là Đồng Thị G, sinh năm 1968 và 02 con, con lớn sinh năm 1987, con nhỏ sinh năm 1988; tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân:

- Tại bản án số: 08 ngày 03/12/1986, bị Tòa án nhân dân thị xã Yên Bái xét xử sơ thẩm tuyên phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, về tội trộm cắp tài sản của công dân, thời gian thử thách là 24 tháng.

Tại bản án số: 03 ngày 24/02/1987, bị Tòa án nhân dân tỉnh Hoàng Liên Sơn xét xử phúc thẩm tuyên phạt 12 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, về tội trộm cắp tài sản của công dân, thời gian thử thách là 18 tháng.

-Tại bản án số: 05 ngày 20/6/1992 bị Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Lạc, tỉnh VP tuyên phạt 02 năm tù giam về tội Cố ý gây thương tích.

- Tại bản án số: 21 ngày 29/11/1996, bị Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Lạc, tỉnh VP tuyên phạt 18 tháng tù giam về tội tổ chức dùng chất ma túy.

- Tại bản án số 125/HSST ngày 06/11/1998, bị Tòa án nhân dân tỉnh VP xét xử sơ thẩm tuyên phạt 15 năm tù giam về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy.

Tại bản án 411 ngày 30/3/1999, bị Tòa án phúc thẩm tại Hà Nội tuyên phạt 15 năm tù giam về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy.

- Ngày 25/12/2022 bị Công an thị trấn Phù Yên, huyện Phù Yên xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Sử dụng trái phép chất ma tuý.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/12/2022 đến nay - Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 16 giờ 50 phút ngày 27/12/2022, tổ công tác Công an thị trấn Phù Yên, huyện Phù Yên làm nhiệm vụ tại Tiểu khu X, thị trấn Phù Yên, huyện Phù Yên tiến hành kiểm tra phát hiện Trần Quang L có biểu hiện tàng trữ trái phép chất ma tuý. Quá trình kiểm tra, Trần Quang L tự nguyện giao nộp 01 gói nilon màu trắng bên trong là lớp giấy báo có chứa chất bột màu trắng và khai nhận là Heroine. Căn cứ vào hành vi vi phạm và vật chứng đã thu giữ, tổ công tác đã tiến hành niêm phong vật chứng và dẫn giải L đến cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Phù Yên để điều tra làm rõ.

Vật chứng thu giữ, tạm giữ gồm: 01 gói chất bột màu trắng nghi là Heroine, bên ngoài được gói bằng nilon màu trắng.

Quá trình điều tra, bị cáo Trần Quang L khai nhận: Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 27/12/2022, L đi bộ từ nhà đến chợ trung tâm huyện Phù Yên thì gặp 01 người đàn ông không biết tên, tuổi (chỉ biết ở xã Gia Phù, huyện Phù Yên). L hỏi mua được của người đàn ông này 01 gói ma túy (Heroine) với giá 500.000 đồng. Mua được ma túy, L đi bộ về nhà, khi đang trên đường về thị bị tổ công tác Công an thị trấn Phù Yên kiểm tra phát hiện, bắt quả tang.

Ngày 27/12/2022, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phù Yên đã tiến hành mở niêm phong, cân tịnh khối lượng ma túy thu giữ của Trần Quang L là 0,223 gam. Lấy toàn bộ gửi giám định, ký hiệu mẫu gửi giám định là L1.

Cùng ngày, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phù Yên ra Quyết định trưng cầu giám định số 197/QĐ-ĐCSKT-MT trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La giám định chất ma túy vật chứng của vụ án.

Tại Bản kết luận giám định số 128/KL-KTHS ngày 29/12/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu L1 là ma túy; Loại Heroine; Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,223 gam. Tổng khổi lượng ma túy thu giữ là 0,223 gam; Loại Heroine...Mẫu gửi giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định”.

Cáo trạng số: 16/CT-VKS ngày 03/4/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên truy tố bị cáo Trần Quang L về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần Quang L phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và đề nghị áp dụng các căn cứ pháp luật xử phạt bị cáo như sau:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Quang L từ 20 (Hai mươi) đến 24 (Hai bốn) tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở + 01 mảnh giấy báo + 01 mảnh nilon màu trắng.

- Về án phí: Áp dụng khoản 1, 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Trần Quang L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai trong quá trình điều tra, không có ý kiến gì tranh luận với vị đại diện Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng của bị cáo: đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phù Yên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo và trách nhiệm hình sự:

Tại phiên tòa, bị cáo vẫn giữ nguyên lời khai tại Cơ quan điều tra, không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án. Bị cáo hoàn toàn nhất trí với cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên. Bị cáo khẳng định việc khai báo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay là hoàn toàn tự nguyện và đúng với hành vi phạm tội của bị cáo.

Xét lời khai của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 17 giờ 00 phút ngày 27 tháng 12 năm 2022 tại tiểu khu X, thị trấn Phù Yên, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La; biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ; biên bản làm việc về việc mở niêm phong, cân tịnh lấy mẫu giám định và niêm phong lại vật chứng; bản ảnh mở niêm phong, cân tịnh và niêm phong lại vật chứng; kết luận giám định; lời khai của người chứng kiến sự việc và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Từ những chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Ngày 27/12/2022, bị cáo Trần Quang L đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,223 gam Heroine. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy thuộc trường hợp quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, quy định mức hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

[3] Xét về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội. Hành vi phạm tội của bị cáo xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền chất ma túy của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, làm gia tăng các tệ nạn xã hội.

Xét về nhân thân của bị cáo: Bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy, nhân thân xấu, bản thân đã từng có 04 tiền án nhưng đều đã được xóa án tích. Bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhận thức được tác hại của ma túy đối với bản thân, gia đình và xã hội nhưng vẫn thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, hành vi phạm tội của bị cáo cần bị xử lý nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra, cần cách ly bị cáo ra ngoài đời sống xã hội một thời gian là cần thiết, để đảm bảo giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên khi quyết định hình phạt đối với bị cáo cũng cần xem xét, sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Do vậy, cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo.

Về tình tiết tăng nặng: không có.

[4] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Quá trình điều tra và thẩm vấn công khai tại phiên tòa hôm nay thấy rằng: bị cáo không có công việc và thu nhập ổn định. Bị cáo không có tài sản gì riêng có giá trị, do đó không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng của vụ án:

Đối với 01 phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở, 01 mảnh giấy báo, 01 mảnh nilon màu trắng. Xét là những vật không có giá trị sử dụng, do đó cần tịch thu và tiêu hủy.

[6] Đối với người đàn ông theo lời khai của bị cáo Trần Quang L, là người đã bán ma túy cho bị cáo. Ngoài lời khai duy nhất của bị cáo, không có tài liệu, chứng cứ nào khác để làm rõ được nhân thân, lai lịch của người đàn ông này. Cơ quan cảnh sát điều tra không có căn cứ để xử lý, do đó không đề cập đến việc xử lý.

[7] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo cho việc thi hành án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Trần Quang L phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo 22 (Hai mươi hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 27/12/2022.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

2. Về vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở khi bắt quả tang, 01 mảnh giấy báo, 01 mảnh nilon màu trắng đựng trong một phong bì đã được niêm phong.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số: 35/BB-GNVC ngày 03 tháng 4 năm 2023 giữa Công an huyện Phù Yên và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phù Yên).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Bị cáo Trần Quang L phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 22/6/2023). 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

76
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 50/2023/HS-ST

Số hiệu:50/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phù Yên - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về