Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 50/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA VIỄN, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 50/2021/HS-ST NGÀY 18/08/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 48/2021/TLST-HS, ngày 23 tháng 7 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 50/2021/QĐXXST-HS, ngày 04 tháng 8 năm 2021 đối với các bị cáo:

1.1. Họ và tên: Nguyễn Văn K (tên gọi khác: không), Sinh năm 1997; tại xã GH, huyện GV, tỉnh Ninh Bình; Nơi cư trú: thôn A, xã GH, huyện GV, tỉnh Ninh Bình; Nghề nghiệp: làm ruộng; Trình độ văn hóa:9/12; dân tộc: Kinh; Giới tính:

nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn Q và bà Nguyễn Thị H; Vợ con: chưa có; Tiền án: Không;

Tiền sự: Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 136 ngày 18/4/2017 của Công an huyện GV, xử phạt Nguyễn Văn K 500.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 08/5/2021 đến ngày 17/5/2021 chuyển tạm giam, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình (có mặt).

1.2. Họ và tên: Trần Quốc L (tên gọi khác: không), Sinh năm 1993; tại thị trấn M, huyện GV, tỉnh Ninh Bình; Nơi cư trú: phố M, thị trấn M, huyện GV, tỉnh Ninh Bình; Nghề nghiệp: không; Trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn Th và bà Hoàng Thị Th; Vợ: Bùi Thị L, có 02 con, con lớn sinh năm 2015, con nhỏ sinh năm 2018; Tiền án: Không;

Tiền sự:

- Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 52 ngày 21/12/2017 của Công an huyện GV, xử phạt Trần Quốc L 500.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”.

- Tại Quyết định số 04 ngày 12/02/2018 của Tòa án nhân dân huyện GV, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với Trần Quốc L thời hạn 24 tháng. Ngày 18/5/2020, Trần Quốc L chấp hành xong quyết định.

- Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 02 ngày 11/01/2021 của Công an thị trấn M, huyện GV, xử phạt Trần Quốc L hình thức Cảnh cáo về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”.

Nhân thân:

- Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 26 ngày 09/10/2009 của Công an huyện GV, xử phạt Trần Quốc L hình thức Cảnh cáo về hành vi “Xâm hại sức khỏe người khác”.

- Tại Bản án số 40 ngày 18/5/2011 của Tòa án nhân dân huyện GV, xử phạt Trần Quốc L 12 tháng tù giam về tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Ngày 20/01/2012, Trần Quốc L chấp hành xong Bản án.

- Tại Bản án số 51 ngày 17/9/2012 của Tòa án nhân dân huyện GV, xử phạt Trần Quốc L 18 tháng tù giam về tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Ngày 08/11/2013, Trần Quốc L chấp hành xong Bản án.

- Tại Bản án số 72 ngày 28/12/2015 của Tòa án nhân dân huyện GV, xử phạt Trần Quốc L 24 tháng tù giam về tội “Đánh bạc”. Ngày 08/12/2017, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội ra Thông báo kết quả xét xử giám đốc thẩm tại Quyết định số 269 ngày 08/12/2017 về việc miễn trách nhiệm hình sự cho Trần Quốc L.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 08/5/2021 đến ngày 17/5/2021 chuyển tạm giam, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình (có mặt).

1.3. Họ và tên: Đỗ Tiến M (tên gọi khác: không), Sinh năm 2001; tại xã GH, huyện GV, tỉnh Ninh Bình; Nơi cư trú: thôn A, xã GH, huyện GV, tỉnh Ninh Bình;

Nghề nghiệp: làm ruộng; Trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; Giới tính: nam;

Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đỗ Xuân D (tên gọi khác: Đỗ Tiến D) và bà Nguyễn Thị X; Vợ con: chưa có; Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 03 ngày 26/6/2019 của Công an xã GH, huyện GV, xử phạt Đỗ Tiến M 500.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 08/5/2021 đến ngày 17/5/2021 chuyển tạm giam, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình (có mặt).

1.4. Họ và tên: Dương Văn Đ (tên gọi khác: không), Sinh năm 1998; tại xã GH, huyện GV, tỉnh Ninh Bình; Nơi cư trú: thôn Phú Sơn, xã GH, huyện GV, tỉnh Ninh Bình; Nghề nghiệp: làm ruộng; Trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Dương Văn A và bà Trần Thị T; Vợ con: chưa có; Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 08/5/2021 đến ngày 17/5/2021 chuyển tạm giam, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình (có mặt).

1.5. Họ và tên: Đinh Công T (tên gọi khác: không), Sinh năm 1999; tại xã GV1, huyện GV, tỉnh Ninh Bình; Nơi cư trú: thôn Trung Hòa, xã GV1, huyện GV, tỉnh Ninh Bình; Nghề nghiệp: làm ruộng; Trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đinh Văn T và bà Nguyễn Thị L; Vợ con: chưa có; Tiền án: Không;

Tiền sự: Tại Quyết định số 10 ngày 25/12/2019 của UBND xã GV1, huyện GV, quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã đối với Đinh Công T thời hạn 03 tháng.

Nhân thân: Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 06 ngày 07/7/2019 của Công an xã GV1, huyện GV, xử phạt Đinh Công T hình thức Cảnh cáo về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 08/5/2021 đến ngày 17/5/2021 chuyển tạm giam, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình (có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án:

+ Anh Dư M T1, sinh năm 1990. Nơi cư trú: Phố Thống Nhất, thị trấn M, huyện GV, tỉnh Ninh Bình. (vắng mặt)

+ Anh Nguyễn Trọng Thành, sinh năm: 1995. Nơi cư trú: Thôn A, xã GH, huyện GV, tỉnh Ninh Bình. (vắng mặt)

- Người tham gia tố tụng khác:

+ Người chứng kiến: Anh Trần Văn T2 (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn K, Đỗ Tiến M, Trần Quốc L, Dương Văn Đ và Đinh Công T đều là người sử dụng ma túy và là bạn bè quen biết nhau. Khoảng 20 giờ 15 phút ngày 08/5/2021, K và M đang ngồi chơi tại khu vực cổng làng thôn A, xã GH thì K nảy sinh ý định rủ M mua ma túy để sử dụng. K nói: “Giờ cắm điện thoại của tao kiếm ít đồ về chơi đi. Sau này hết bao nhiêu mỗi thằng một ít”;

M đồng ý và đi mượn xe mô tô nhãn hiệu Exciter của anh Nguyễn Trọng Thành, sinh năm 1995 (người cùng thôn) để đi. Sau đó, K dùng điện thoại di động của M gọi cho Trần Quốc L rủ L đi mua ma túy về để sử dụng. L trả lời: “Ừ xuống nhà thằng T đi, tao đang ở đây”. Khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày, M điều khiển xe mô tô chở K đến nhà T ở thôn Trung Hòa, xã GV1, thì gặp T, L và Đ đang ngồi chơi trong phòng ngủ của T. K nói với L mang điện thoại của K đi cắm lấy tiền mua ma túy cùng sử dụng, sau đó góp tiền cùng chuộc điện thoại cho K. Lúc này, L, T và Đ ngồi đó đều đồng ý. K lấy điện thoại di động nhãn hiệu OPPO vỏ màu đỏ đưa cho L. L mượn xe mô tô nhãn hiệu Exciter của M vừa đi đến rồi điều khiển xe mô tô chở Đ đi đến cửa hàng điện thoại T1 Mobile của anh Dư Mạnh T1 với mục đích cầm cố điện thoại di động K đưa để lấy tiền mua ma túy về sử dụng. Do anh T1 không làm dịch vụ cầm đồ nên anh T1 cho L mượn số tiền 500.000 đồng, L để lại điện thoại di động nhãn hiệu OPPO vỏ màu đỏ cho anh T1 để làm tin. Sau đó, L tiếp tục điều khiển xe mô tô chở Đ đi mua ma túy. Khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày, khi đến khu vực Quốc lộ 1A, gần UBND xã Thanh Hải, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, L dừng xe bảo Đ đứng chờ ở lề đường còn L điều khiển xe mô tô đi tiếp về hướng thành phố Hà Nội khoảng 200 mét, L gặp và mua của một người đàn ông không quen biết đang đứng bên phải đường một gói ma túy đựng trong 01 túi nilông màu trắng kích thước (6,5 x 4) cm, bên trong chứa tinh thể màu trắng với giá 500.000 đồng. L bỏ gói ma túy vừa mua vào túi quần phía trước bên trái đang mặc và xin người đàn ông bán ma túy 04 vỏ túi nilông màu trắng, đều có kích thước (2 x 1,5) cm. L bỏ 04 vỏ túi nilông vào túi quần rồi điều khiển xe mô tô quay lại đón Đ đi về nhà T. Khoảng 22 giờ cùng ngày, L và Đ về đến nhà T, thấy M và K đang ngồi trên giường trong phong ngủ của T. Khoảng 05 phút sau, T đi bộ vào phòng. Lúc này L lấy từ túi quần bên trái phía trước đang mặc ra 01 túi nilông màu trắng kích thước (6,5 x 4) cm, bên trong đựng chất tinh thể màu trắng và 04 vỏ túi nilông màu trắng đều có kích thước (2 x 1,5) cm, đặt lên trên giường.

L hỏi T: “Cóng đâu”, T trả lời: “Dưới gầm bàn”. Nghe T nói, Đ cúi xuống lấy bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá từ dưới gầm bàn trong góc phòng ngủ đặt lên giường. Sau đó, L đổ chất tinh thể màu trắng trong túi nilông kích thước (6,5 x 4) cm vào 04 vỏ túi nilông màu trắng kích thước (2 x 1,5) cm; phần tinh thể màu trắng còn lại trong túi nilông L đổ hết vào trong bầu chiếc cóng thủy tinh màu trắng gắn trên bộ dụng cụ sử dụng ma túy. Còn vỏ túi nilông màu trắng kích thước (6,5 x 4) cm L để trên mặt bàn. K nói với L: “Để lại một ít mang về chơi”. L trả lời: “Đang xem chơi hết bằng nào, còn thì cũng chia mỗi thằng một ít”. Rồi L đưa cho K 01 túi nilông kích thước (2 x 1,5) cm bên trong đựng các tinh thể màu trắng; K cầm và đưa lại cho M. M cầm túi nilông K đưa để xuống giường trước mặt K và M. Còn L cầm 03 túi nilông màu trắng kích thước (2 x 1,5) cm đựng các tinh thể màu trắng còn lại để ở mép giường góc ngoài gần với lối ra vào phòng ngủ của T. Sau đó, lần lượt L, K, M, T, Đ cùng nhau sử dụng ma túy trong bầu cóng bằng hình thức hút. Đến khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày, Tổ công tác của Công an huyện GV phối hợp với Công an xã GV1 đến nhà Đinh Công T xác minh về lưu trú và tuyên truyền phòng chống dịch Covid, phát hiện Nguyễn Văn K, Trần Quốc L, Đỗ Tiến M, Dương Văn Đ và Đinh Công T có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Tổ công tác kiểm tra và thu giữ:

- 01 chai nhựa màu trắng chiều dài 22 cm, có chân đế lắp vào vỏ hộp nhựa hình trụ tròn màu trắng đường kính 11,5 cm, chiều cao 7,5 cm; nắp chai màu vàng có hai lỗ tròn mỗi lỗ đều có đường kính 0,5 cm; một lỗ được gắn đầu ống hút nhựa màu trắng dài 42 cm và một lỗ được gắn cóng thủy tinh màu trắng, đầu cóng hình cầu đường kính 01 cm, có lỗ tròn đường kính 0,5 cm, thân cóng hình trụ dài 12 cm uốn khúc hình lưỡi câu tại 2/3 thân cóng và có gắn 01 đoạn ống hút nhựa màu trắng dài 12 cm, trong bầu cóng bám dính chất tinh thể màu nâu;

- Tại vị trí mặt sàn phòng ngủ (góc phòng ngủ) giáp cửa ra vào 01 túi nilông màu trắng kích thước (2 x 1,5) cm, bên trong có chất tinh thể màu trắng (được niêm phong trong túi niêm phong mã số 107896).

- Tại mặt nền phòng ngủ cạnh chân giường phía ngoài cùng gần cửa ra vào 03 túi nilông màu trắng đều có kích thước (2 x 1,5) cm, bên trong cả 03 túi đều có chất tinh thể màu trắng (được niêm phong trong túi niêm phong mã số 107897).

- Tại vị trí mặt bàn gỗ ở góc phòng ngủ 01 vỏ túi nilông màu trắng kích thước (6,5 x 4) cm.

Ngoài ra, Tổ công tác còn thu giữ của L 01 bật lửa ga màu đỏ và số tiền 300.000 đồng; thu giữ của M 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone vỏ màu trắng viền màu vàng đã qua sử dụng và 01 xe mô tô nhãn hiệu Exciter đã qua sử dụng, không gắn Biển kiểm soát; thu giữ của Đ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone vỏ màu trắng đã qua sử dụng và số tiền 550.000 đồng; thu giữ của T 01 điện thoại nhãn hiệu Samsung vỏ màu đỏ đã qua sử dụng lắp 01 thẻ sim số 0789.099.729.

Ngày 13/5/2021, anh Dư Mạnh T1 – chủ cửa hàng điện thoại T1 Mobile đã tự nguyện giao nộp cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện GV 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO vỏ màu đỏ đã qua sử dụng.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện GV đã tiến hành tách chất tinh thể màu nâu bám dính trong bầu cóng thủy màu trắng thu giữ của T, L, Đ, K và M có khối lượng là 0,160 gam, lấy mẫu giám định ký hiệu M1. Tiến hành cân xác định khối lượng chất tinh thể màu trắng bên trong 04 túi nilông màu trắng, đều có kích thước (2 x 1,5) cm, thu giữ của T, L, Đ, K và M có khối lượng cụ thể như sau: Túi nilông màu trắng trong túi niêm phong mã số 107896 có khối lượng 0,237 gam, lấy mẫu ký hiệu M2; Túi nilông màu trắng thứ nhất trong túi niêm phong mã số 107897 có khối lượng 0,160 gam, lấy mẫu ký hiệu M3; Túi nilông màu trắng thứ hai trong túi niêm phong mã số 107897 có khối lượng 0,169 gam, lấy mẫu ký hiệu M4; Túi nilông màu trắng thứ ba trong túi niêm phong mã số 107897 có khối lượng 0,179 gam, lấy mẫu ký hiệu M5, để gửi đi xác định khối lượng và giám định chất ma túy.

Tại bản Kết luận giám định số 367/KLGĐ-PC09-MT, ngày 15/5/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình kết luận:

- Mẫu chất dạng tinh thể màu nâu gửi giám định ký hiệu M1 có khối lượng 0,1577 gam. Các mẫu chất dạng tinh thể màu trắng gửi giám định ký hiệu M2 có khối lượng 0,2354 gam, M3 có khối lượng 0,1591 gam, M4 có khối lượng 0,1676 gam, M5 có khối lượng 0,1764 gam.

- Các mẫu chất gửi giám định ký hiệu từ M1 đến M5 đều là ma túy, loại Methamphetamine.

Methamphetamine là chất ma túy thuộc bảng Danh mục II, số thứ tự 323; Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Tại bản Cáo trạng số 53/CT-VKS-GV ngày 22/ 7/ 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện GV đã truy tố Nguyễn Văn K, Trần Quốc L, Đỗ Tiến M, Dương Văn Đ và Đinh Công T ra trước Tòa án nhân dân huyện GV, tỉnh Ninh Bình để xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện GV, tỉnh Ninh Bình thực hành quyền công tố tại phiên tòa, phát biểu luận tội đã giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như nội dung bản Cáo trạng. Sau khi phân tích đánh giá tính chất nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn K, Trần Quốc L, Đỗ Tiến M, Dương Văn Đ và Đinh Công T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn K từ 24 tháng đến 27 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 08/5/2021.

Xử phạt bị cáo Trần Quốc L từ 24 tháng đến 27 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 08/5/2021.

Xử phạt các bị cáo Đỗ Tiến M, Dương Văn Đ, Đinh Công T mỗi bị cáo từ 15 tháng đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 08/5/2021.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự. Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì ghi số 367/KLGĐ-PC09-MT do phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình bàn giao sau giám định bên trong gồm: Chất dạng tinh thể màu nâu còn lại trong mẫu gửi giám định ký hiệu M1 có khối lượng 0,1001 gam là ma túy loại Methamphetamine; Chất dạng tinh thể màu trắng còn lại trong các mẫu gửi giám định ký hiệu M2 có khối lượng 0,1588 gam, M3 có khối lượng 0,0858 gam, M4 có khối lượng 0,0845 gam, M5 có khối lượng 0,0958 gam, đều là ma túy loại Methamphetamine và toàn bộ vỏ bao gói niêm phong; 01 hộp bìa catton, kích thước (37 x 27 x 24) cm, bên trong gồm: 01 chai nhựa màu trắng chiều dài 22 cm, có chân đế lắp vào vỏ hộp nhựa hình trụ tròn màu trắng đường kính 11,5 cm, chiều cao 7,5 cm, nắp chai màu vàng có hai lỗ tròn mỗi lỗ đều có đường kính 0,5 cm, một lỗ được gắn đầu ống hút nhựa màu trắng dài 42 cm và một lỗ được gắn cóng thủy tinh màu trắng, đầu cóng hình cầu đường kính 01 cm, có lỗ tròn đường kính 0,5 cm, thân cóng hình trụ dài 12 cm uốn khúc hình lưỡi câu tại 2/3 thân cóng và có gắn 01 đoạn ống hút nhựa màu trắng dài 12 cm và 01 vỏ hộp bìa catton màu vàng, kích thước (33 x 20 x 26) cm niêm phong vật chứng ban đầu; 01 phong bì thư dán kín bên trong gồm: 02 vỏ túi niêm phong mã số 107896 và 107897 niêm phong vật chứng ban đầu và 04 vỏ túi nilông màu trắng, đều có kích thước (2 x 1,5) cm. 01 túi niêm phong số 107898 bên trong có 01 vỏ túi nilông màu trắng kích thước (6,5 x 4) cm. 01 bật lửa ga màu đỏ; 01 thẻ sim số 0789.099.729.

Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO vỏ màu đỏ đã qua sử dụng của Nguyễn Văn K do anh Dư M T1 nộp; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone vỏ màu vàng viền màu vàng đã qua sử dụng thu giữ của Đỗ Tiến M sử dụng vào việc liên lạc đi mua ma tuý.

Trả lại 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung vỏ màu đỏ đã qua sử dụng thu giữ của Đinh Công T; số tiền 300.000 đồng thu giữ của Trần Quốc L; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone vỏ màu trắng đã qua sử dụng và số tiền 550.000 đồng thu giữ của Dương Văn Đ nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

Tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng, không có ý kiến tranh luận đối với luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng các bị cáo nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện GV, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện GV, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật Tố tụng Hình sự; quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa các bị cáo Nguyễn Văn K, Trần Quốc L, Dương Văn Đ, Đỗ Tiến M, Đinh Công T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện GV đã truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với vật chứng của vụ án đã được thu giữ, phù hợp kết luận giám định; phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ cơ sở kết luận: Nguyễn Văn K, Trần Quốc L, Dương Văn Đ, Đỗ Tiến M, Đinh Công T là người sử dụng ma túy. Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 08/5/2021, trong phòng ngủ của T, thuộc địa phận thôn Trung Hòa, xã GV1, huyện GV, tỉnh Ninh Bình, các bị cáo Nguyễn Văn K, Trần Quốc L, Đỗ Tiến M, Dương Văn Đ và Đinh Công T đã có hành vi cất dấu trái phép 0,8962gam Methamphetamine, nhằm mục đích sử dụng cho bản thân.

Bộ luật Hình sự quy định:

Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma tuý thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a, ……..;

b, ……..;

c, Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

…….

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Hành vi nêu trên của các bị cáo Nguyễn Văn K, Trần Quốc L, Dương Văn Đ, Đỗ Tiến M và Đinh Công T đã phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Như vậy cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện GV, tỉnh Ninh Bình đã truy tố đối với các bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội thì thấy: Ma túy loại Methamphetamine là loại độc chất, có khả năng gây nghiện M, có hại cho sức khỏe và ảnh hưởng rất xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội, là một trong các nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác, gây ảnh hưởng đến sức khỏe, trí tuệ và sự phát triển bình thường của nòi giống, làm khánh kiệt kinh tế của người sử dụng chất ma túy, gây bất bình trong quần chúng nhân dân do đó bị Nhà nước cấm tự do tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt. Các bị cáo nhận thức được điều đó, song để phục vụ nhu cầu bản thân, các bị cáo đã bất chấp sự trừng trị của pháp luật rủ rê nhau để cùng thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi phạm tội của các bị cáo gây nguy hại lớn cho xã hội, trực tiếp xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với chất ma tuý, là hành vi cố ý thuộc trường hợp nghiêm trọng.

[4] Xét các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo thì thấy:

- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có - Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo nên các bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Về nhân thân: Bị cáo Nguyễn Văn K có 01 tiền sự; Bị cáo Trần Quốc L có 03 tiền sự; Bị cáo Đinh Công T có 01 tiền sự. Bị cáo Đinh Công T, bị cáo Đỗ Tiến M đã từng bị xử phạt vi phạm hành chính, đã chấp hành xong quyết định xử phạt vi phạm hành chính trên một năm, nên được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính theo quy định tại Điều 7 Luật xử lý vi phạm hành chính. Bị cáo Trần Quốc L từng bị Tòa án xét xử về tội Cưỡng đoạt tài sản và bị kết án nhưng đã được đương nhiên xóa án tích nên được coi như chưa bị kết án theo quy định tại Điều 70 Bộ luật Hình sự.

[5]. Về vai trò của các bị cáo: Các bị cáo cố ý cùng thực hiện tội phạm do vậy các bị cáo thuộc trường hợp đồng phạm, nhưng mang tính giản đơn. Xét vai trò cụ thể của các bị cáo:

Bị cáo Nguyễn Văn K là người chủ động rủ rê lôi kéo, chuẩn bị điều kiện vật chất là sử dụng điện thoại của bị cáo mục đích cầm cố lấy tiền mua ma túy, cùng các bị cáo khác thực hiện hành vi phạm tội; do vậy bị cáo giữ vai trò đầu trong vụ án.

Bị cáo Trần Quốc L là đồng phạm, bị cáo là người tích cực nhất trong thực hiện tội phạm, bị cáo đi cầm điện thoại để lấy tiền, đồng thời là người trực tiếp đi và giao dịch mua ma túy.

Bị cáo Dương Văn Đ là đồng phạm, tích cực thực hiện hành vi phạm tội, cùng đi cầm cố điện thoại với bị cáo L, đi mua ma túy tại Hà Nam cùng bị cáo L. Do vậy bị cáo giữ vai trò thứ ba sau bị cáo L.

Bị cáo Đỗ Tiến M, bị cáo Đinh Công T là đồng phạm có vai trò sau cùng trong vụ án.

[6] Về biện pháp chấp hành hình phạt: Căn cứ quy định của Bộ luật hình sự, căn cứ tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân và vai trò của từng bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn tương ứng với mỗi bị cáo, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục đối với các bị cáo, răn đe và phòng ngừa chung.

[7] Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo Nguyễn Văn K, Trần Quốc L, Đỗ Tiến M, Dương Văn Đ, Đinh Công T là người sử dụng ma túy, các bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm mục đích sử dụng cho bản thân, không nhằm mục đích vụ lợi; bản thân các bị cáo không có thu nhập, không có tài sản có giá trị nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: Đối với 01 phong bì “Mẫu vật hoàn trả sau giám định” ghi số 367/KLGĐ-PC09-MT do phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình bàn giao sau giám định bên trong gồm chất ma túy còn lại sau giám định và toàn bộ vỏ bao gói niêm phong; 01 hộp bìa catton, kích thước (37 x 27 x 24) cm, bên trong gồm các dụng cụ để sử dụng ma túy và 01 vỏ hộp bìa catton màu vàng, kích thước (33 x 20 x 26) cm niêm phong vật chứng ban đầu; 01 phong bì thư dán kín bên trong gồm: 02 vỏ túi niêm phong mã số 107896 và 107897 niêm phong vật chứng ban đầu và 04 vỏ túi nilông màu trắng, đều có kích thước (2 x 1,5) cm. 01 túi niêm phong số 107898 bên trong có 01 vỏ túi nilông màu trắng kích thước (6,5 x 4) cm. 01 bật lửa ga màu đỏ. Đây là những vật chứng của vụ án bị cấm tàng trữ, sử dụng, mua bán, không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO vỏ màu đỏ đã qua sử dụng do anh Dư Mạnh T1 giao nộp, quá điều tra xác định là tài sản của Nguyễn Văn K, sử dụng vào mục đích đặt làm tin để vay tiền đi mua ma túy; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone vỏ màu vàng viền màu vàng đã qua sử dụng thu giữ của Đỗ Tiến M, qua điều tra xác định là tài sản của M, sử dụng vào việc liên lạc đi mua ma tuý.

Do đó cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Đối với 01 thẻ sim số 0789.099.729. Quá trình điều tra xác định thẻ sim này là tài sản của Trần Quốc L. Do L không có điện thoại nên đã lắp nhờ thẻ sim vào chiếc điện thoại di động của T để K liên lạc rủ L đi mua ma túy thông qua thẻ sim này, do đó cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung vỏ màu đỏ đã qua sử dụng thu giữ của Đinh Công T; số tiền 300.000 đồng thu giữ của Trần Quốc L; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone vỏ màu trắng đã qua sử dụng và số tiền 550.000 đồng thu giữ của Dương Văn Đ. Quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của T, L và Đ, không liên quan đến hành vi phạm tội, cần trả lại cho T, L và Đ, nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Exciter không gắn biểm kiểm soát, đã qua sử dụng thu giữ của Đỗ Tiến M. Quá trình điều tra xác định xe mô tô trên có biển kiểm soát 35B2-394.92 và là tài sản hợp pháp của anh Nguyễn Trọng Thành. Anh Thành không biết việc M sử dụng chiếc xe mô tô của mình với mục đích đi mua ma túy. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện GV không xem xét trách nhiệm của anh Thành và đã trả lại xe mô tô trên cho anh Thành là đúng quy định pháp luật. Do vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với số tiền 500.000đồng anh Dư M T1 đưa cho Trần Quốc L anh T1 không có yêu cầu nhận lại và không có đề nghị gì. Đây là quyền định đoạt của anh T1, cần tôn trọng do vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[9] Đối với nguồn gốc số ma túy, L khai mua tại khu vực xã Thanh Hải, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam của một người đàn ông không quen biết, không có căn cứ để điều tra làm rõ, do đó Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Từ những nhận định trên cho thấy đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện GV tại phiên tòa về tội danh, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân cần áp dụng đối với các bị cáo là đúng quy định của pháp luật, phù hợp với quan điểm xử lý của Hội đồng xét xử.

Các bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm; bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: các bị cáo Nguyễn Văn K, Trần Quốc L, Đỗ Tiến M, Dương Văn Đ, Đinh Công T phạm tội "ng trữ trái phép chất ma túy".

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn K 30 (ba mươi) tháng tù. Thêi gian chấp hành hình phạt tï tÝnh tõ ngµy bị bắt tạm giữ 08/5/2021.

Xử phạt bị cáo Trần Quốc L 30 (ba mươi) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày bị bắt tạm giữ 08/5/2021.

Xử phạt bị cáo Dương Văn Đ 27 (hai mươi bẩy) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày bị bắt tạm giữ 08/5/2021.

Xử phạt bị cáo Đinh Công T 18 (mười tám) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày bị bắt tạm giữ 08/5/2021.

Xử phạt bị cáo Đỗ Tiến M 18 (mười tám) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày bị bắt tạm giữ 08/5/2021.

2. Biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì “Mẫu vật hoàn trả sau giám định” ghi số 367/KLGĐ-PC09-MT do phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình bàn giao sau giám định bên trong gồm: Chất dạng tinh thể màu nâu còn lại trong mẫu gửi giám định ký hiệu M1 có khối lượng 0,1001 gam là ma túy loại Methamphetamine;

Chất dạng tinh thể màu trắng còn lại trong các mẫu gửi giám định ký hiệu M2 có khối lượng 0,1588 gam, M3 có khối lượng 0,0858 gam, M4 có khối lượng 0,0845 gam, M5 có khối lượng 0,0958 gam, đều là ma túy loại Methamphetamine và toàn bộ vỏ bao gói niêm phong; 01 hộp bìa catton, kích thước (37 x 27 x 24) cm, bên trong gồm các dụng cụ để sử dụng ma túy và 01 vỏ hộp bìa catton màu vàng, kích thước (33 x 20 x 26) cm niêm phong vật chứng ban đầu; 01 phong bì thư dán kín bên trong gồm: 02 vỏ túi niêm phong mã số 107896 và 107897 niêm phong vật chứng ban đầu và 04 vỏ túi nilông màu trắng, đều có kích thước (2 x 1,5) cm; 01 túi niêm phong số 107898 bên trong có 01 vỏ túi nilông màu trắng kích thước (6,5 x 4) cm; 01 bật lửa ga màu đỏ; 01 thẻ sim số 0789.099.729.

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO vỏ màu đỏ đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone vỏ màu vàng viền màu vàng đã qua sử dụng.

- Trả lại cho Đinh Công T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung vỏ màu đỏ đã qua sử dụng; Dương Văn Đ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone vỏ màu trắng đã qua sử dụng và số tiền 550.000đ; Trần Quốc L số tiền 300.000 đồng là tài sản hợp pháp của các bị cáo, nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án. (Căn cứ theo Ủy nhiệm chi lập ngày 02/8/2021; Đặc điểm các vật chứng theo biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện GV và Chi cục Thi hành án dân sự huyện GV ngày 23/7/2021).

3. Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của ủy ban Thường vụ Quốc Hội; Buộc các bị cáo Nguyễn Văn K, Trần Quốc L, Đỗ Tiến M, Dương Văn Đ, Đinh Công T mỗi người phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai, các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án 18/8/2021. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hay bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

143
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 50/2021/HS-ST

Số hiệu:50/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Viễn - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về