Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 50/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ H, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 50/2020/HS-ST NGÀY 23/10/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 23 tháng 10 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã H, tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 46/2020/TLST-HS, ngày 02 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 46/2020/QĐXXST-HS, ngày 12 tháng 10 năm 2020, đối với bị cáo:

Trần N, sinh ngày 14/01/1991; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Xã TB, huyện TH, tỉnh Đồng Tháp; Chỗ ở hiện nay: Khóm 1, phường AT, thị xã H, tỉnh Đồng Tháp; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: Không biết chữ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Con ông Trần Văn Ô, sinh năm 1970 (chết) và bà Phan TP, sinh năm 1971; Vợ: Nguyễn Thị Ngọc U, sinh năm 1990; Con: Trần Khánh Ă, sinh năm 2014; Tiền sự: Chưa; Tiền án: Chưa; Về Nhân thân: Ngày 12/11/2010, bị Ủy ban Nhân dân tỉnh Đồng Tháp ra Quyết định đưa vào cơ sở giáo dưỡng 18 tháng về hành vi gây rối trật tự công cộng. Chấp hành xong quyết định vào ngày 12/7/2012; Tạm giữ: Ngày 04/7/2020; Tạm giam: Từ ngày 10/7/2020 đến nay. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thị xã H, tỉnh Đồng Tháp (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Võ Văn Q, sinh nnăm 1988 (vắng mặt);

Nơi cư trú: Khóm NM, phường AT, thị xã H, tỉnh Đồng Tháp.

2. Lê Thanh T, sinh ngày 15/02/1992 (vắng mặt);

3. Dương V, sinh năm 1982 (vắng mặt);

Cùng nơi cư trú: Khóm 3, phường AT, thị xã H, tỉnh Đồng Tháp.

4. Nguyễn Thị M, sinh năm 1986 (vắng mặt);

Nơi cư trú: Khóm ST, phường AL, thị xã H, tỉnh Đồng Tháp.

5. Lê Đ, sinh năm 1942 (vắng mặt);

Nơi cư trú: Số 153A, đường số 45, phường Q2, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Người làm chứng: Bùi Thị K, sinh năm 1980 (vắng mặt); Nơi cư trú: Khóm NM, phường AT, thị xã H, tỉnh Đồng Tháp.

- Người chứng kiến: Lê Minh P, sinh năm 1970 (vắng mặt). Nơi cư trú: Khóm 3, phường AT, thị xã H, tỉnh Đồng Tháp.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 09 giờ 40 phút, ngày 04/07/2020, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về hình sự, kinh tế, ma túy Công an thị xã H phối hợp với Công an phường AT, tuần tra đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn phường, phát hiện Trần N (ngụ khóm 1, phường AT, thị xã H) đang điều khiển xe mô tô mang biển kiểm soát 52T5-2806 lưu thông trên đoạn đường đal (thuộc khóm NM, phường AT) có dấu hiệu khả nghi nên yêu cầu dừng xe để kiểm tra. Qua kiểm tra phát hiện bên trong túi quần bên phải của N có 01 (một) bịch nylon, bên trong bịch nylon có chứa các hạt tinh thể rắn màu trắng (nghi là là ma túy tổng hợp chưa xác định T lượng) nên lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại biên bản bắt người phạm tội quả tang, Cơ quan điều tra thu giữ: 01 (một) bịch nylon màu trắng được hàn kín bên trong có chứa các hạt tinh thể rắn màu trắng (nghi là ma túy tổng hợp, chưa xác định T lượng); 01 (một) xe mô tô biển số 52T5-2806, nhãn hiệu HONDA, số máy JC35E-0031078, Số khung Y-031022 (xe đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng hoạt động bên trong).

Tại bản kết luận giám định số: 597/KL-KTHS ngày 06/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự (KTHS) Công an tỉnh Đồng Tháp. Kết luận:

“Tinh thể rắn màu trắng chứa trong 01 bịch nylon màu trắng, hàn kín được niêm phong trong phong bì nêu trên gửi giám định đều là chất ma túy, có tổng khối lượng 0,273 gam, loại Methamphetamine.” (số thứ tự 323, Danh mục II, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ)” .

Quá trình điều tra, Trần N thừa nhận ma túy bị bắt quả tang là của Nu mua của Võ Văn Q (Q Tổng) với giá 200.000 đồng, mục đích để sử dụng; 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát 52T5-2806, nhãn hiệu HONDA, N mượn của chị Nguyễn Thị M (xe mô tô này M mượn của anh Lê Thanh T).

Qúa trình điều tra, Trần N đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đã thực hiện.

Tại bản cáo trạng số: 50/CT-VKS-HS, ngày 01 tháng 10 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã H, tỉnh Đồng Tháp truy tố bị cáo Trần N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã H thực hành quyền công tố khẳng định hành vi của bị cáo Trần N đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Trần N về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Trần N từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

Đối với việc Trần N khai nhận số lượng ma túy trên N mua của Võ Văn Q ( sinh 1988, ngụ khóm NM, phường AT, thị xã H, tỉnh Đồng Tháp). Qua điều tra, Q không thừa nhận bán ma túy cho Nu nên không có cơ sở truy cứu trách nhiệm Võ Văn Q về hành vi mua bán trái phép chất ma túy, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau, nên không đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử lý.

Đối với anh Lê Thanh T cho chị Nguyễn Thị M mượn xe mô tô biển kiểm soát 52T5-2806, sau đó chị Nguyễn Thị M cho bị cáo Trần N mượn lại xe, việc Trần N mượn xe mô tô để mua ma túy về sử dụng, anh T và chị M hoàn toàn không biết nên không có cơ sở xử lý anh Lê Thanh T và chị Nguyễn Thị M với vai trò đồng phạm với Trần N về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, do đó không đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử lý.

Về vật chứng và tài sản tạm giữ: Căn cứ Điều 46 và Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì được niêm phong số 629, ngày 04/7/2020 trên phong bì có chữ ký ghi họ tên Võ Minh S, Đặng K, Lê Minh P, Nguyễn Văn E, Nguyễn R, Nguyễn D và có dấu điểm chỉ màu đỏ mang tên Trần N, được đóng dấu mộc đỏ tròn của Công an phường AT – Công an thị xã H và Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đồng Tháp; Trả lại cho người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Lê Thanh T: 01 (một) xe mô tô biển số 52T5-2806, nhãn hiệu HONDA, số máy JC35E- 0031078, Số khung Y-031022 (xe đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng hoạt động bên trong).

Tại phiên tòa, bị cáo Trần N đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình theo cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát, lời nhận tội của bị cáo phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 04/7/2020, người làm chứng, người chứng kiến và các chứng cứ khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án, bị cáo thống nhất với nội dung luận tội của Viện kiểm sát và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Trần N đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cao trạng truy tố của Viện Kiểm sát. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi mình thực hiện là vi phạm pháp luật hình sự, nhưng bị cáo lại có hành vi cất giấu bất hợp pháp chất ma túy để nhằm mục đích sử dụng, cụ thể là: Vào khoảng 09 giờ 40 phút ngày 04/07/2020, Trần N đang điều khiển xe mô tô mang biển kiểm soát 52T5-2806 lưu thông trên đoạn đường đal (thuộc khóm NM, phường AT) đang cất giấu bên trong túi quần bên phải của N có 01 (một) bịch nylon, bên trong bịch nylon có chứa các hạt tinh thể rắn màu trắng (nghi là là ma túy tổng hợp chưa xác định T lượng) thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về hình sự, kinh tế, ma túy Công an thị xã H phối hợp với Công an phường AT phát hiện nên lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Căn cứ Bản kết luận giám định số: 597/KL-KTHS ngày 06/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự (KTHS) Công an tỉnh Đồng Tháp. Kết luận:

“Tinh thể rắn màu trắng chứa trong 01 bịch nylon màu trắng, hàn kín được niêm phong trong phong bì nêu trên gửi giám định đều là chất ma túy, có tổng khối lượng 0,273 gam, loại Methamphetamine.” (số thứ tự 323, Danh mục II, Nghị định số 73 ngày 15/5/2018 của Chính phủ)” .

Quá trình điều tra, Trần N thừa nhận ma túy bị bắt quả tang là của N mua của Võ Văn Q với giá 200.000 đồng, mục đích để sử dụng.

Căn cứ lời thừa nhận của bị cáo, Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 04/7/2020 và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án Như vậy đã có đủ căn cứ để kết luận hành vi của bị cáo Trần N đã phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự như cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát.

Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:… a) … c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;…” Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến các quy định của nhà nước về quản lý chất ma túy, gây ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an tại địa phương.

Như chúng ta đã biết, hậu quả của việc sử dụng trái phép chất ma túy gây ra cho Xã hội là rất nặng nề, nó gây tác hại lâu dài cho nòi giống, phát sinh mâu thuẫn trong cộng đồng, làm tiêu hao tiền bạc của bản thân và gia đình của người sử dụng, gây tổn hại về tình cảm, ảnh hưởng đến đạo đức, thuần phong mỹ tục lâu dài của dân tộc, đồng thời nó còn làm phát sinh nhiều tệ nạn xã hội khác.

Hiện nay, tình trạng tàng trữ để sử dụng và mua bán trái phép chất ma túy trên cả nước nói chung và trên địa bàn thị xã H nói riêng xảy ra ngày càng nhiều với tính chất hết sức phức tạp. Nhằm để ổn định tình hình chính trị tại địa phương, góp phần vào công cuộc phòng chống và ngăn ngừa tội phạm, Hội đồng xét xử xét thấy phải xử phạt bị cáo mức hình phạt nghiêm khắc để thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật.

[3] Về nhân thân của bị cáo: Bản thân bị cáo đã 01 lần bị Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp quyết định đưa vào cơ sở giáo dưỡng với thời hạn 18 tháng về hành vi gây rối trật tự công cộng. Sau khi chấp hành xong quyết định của Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp, bị cáo lại nghiện ma túy và có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng, điều đó thể hiện bị cáo thiếu ý thức tu dưỡng rèn luyện nhân cách, vì muốn thỏa mãn nhu cầu của bản thân mà bị cáo đã dẫn đến con đường phạm tội.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo thể hiện sự ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, Hội đồng xét xử áp dụng để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt thể hiện tính nhân đạo của pháp luật Xã hội chủ nghĩa.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[5] Căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, căn cứ vào tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy phải xử phạt bị cáo mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống cộng đồng một thời gian nhất định, để có đủ điều kiện cải tạo, giáo dục cho bị cáo thấy được lỗi lầm của mình, phấn đấu trở thành con người tốt có ích cho gia đình và xã hội. Có như thế mới thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật, đồng thời cũng nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung cho những ai có ý định phạm tội như bị cáo.

[6] Đối với việc Trần N khai nhận số lượng ma túy trên Nu mua của Võ Văn Q (sinh 1988, ngụ khóm NM, phường AT, thị xã H, tỉnh Đồng Tháp). Qua điều tra, Q không thừa nhận bán ma túy cho N, nên Cơ quan điều tra không có cơ sở truy cứu trách nhiệm Võ Văn Q về hành vi mua bán trái phép chất ma túy, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau, do đó Hội đồng xét xử không xem xét xử lý.

[7] Đối với anh Lê Thanh T cho chị Nguyễn Thị M mượn xe mô tô biển kiểm soát 52T5-2806, sau đó chị Nguyễn Thị M cho bị cáo Trần N mượn lại xe, việc Trần N mượn xe mô tô để mua ma túy về sử dụng, anh T và chị Hiền hoàn toàn không biết nên không có cơ sở xử lý anh Lê Thanh T và chị Nguyễn Thị M với vai trò đồng phạm với Trần N về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, do đó Hội đồng xét xử không xem xét xử lý.

[8] Về vật chứng vụ án và tài sản tạm giữ:

Đối với số lượng ma túy liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo được đựng trong 01 (một) phong bì được niêm phong số 629, ngày 04/7/2020 trên phong bì có chữ ký ghi họ tên Võ Minh S, Đặng K, Lê Minh P, Nguyễn Văn E, Nguyễn R, Nguyễn D và có dấu điểm chỉ màu đỏ mang tên Trần N, được đóng dấu mộc đỏ tròn của Công an phường AT –Công an thị xã H và Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đồng Tháp, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự tuyên tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 (một) xe mô tô biển số 52T5-2806, nhãn hiệu HONDA, số máy JC35E-0031078, Số khung Y-031022 (xe đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng hoạt động bên trong) mà bị cáo Trần N điều khiển khi bị bắt quả tang. Chiếc xe trên là của anh Lê Thanh T cho chị Nguyễn Thị M mượn, sau đó Trần N mượn lại của chị Hiền đi mua ma túy về để sử dụng. Việc bị cáo Trần N sử dụng xe đi mua ma túy sử dụng, anh T và chị Hiền không biết. Do đó Hội đồng xét xử căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự tuyên trả lại cho anh Lê Thanh T là phù hợp pháp luật.

[9] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo sống bằng nghề làm thuê, thu nhập không ổn định, nên Hội đồng xét xử không cần áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Từ các phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử nhận thấy nội dung luận tội của Kiểm sát viên là có căn cứ và phù hợp pháp luật.

[10] Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án để buộc bị cáo phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Trần N phạm tội“Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Trần N 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ: Ngày 04/7/2020.

- Về vật chứng và tài sản tạm giữ : Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì được niêm phong số 629, ngày 04/7/2020 trên phong bì có chữ ký ghi họ tên Võ Minh S, Đặng K, Lê Minh P, Nguyễn Văn E, Nguyễn R, Nguyễn D và có dấu điểm chỉ màu đỏ mang tên Trần N, được đóng dấu mộc đỏ tròn của Công an phường AT – Công an thị xã H và Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đồng Tháp.

Trả lại cho anh Lê Thanh T 01 (một) xe mô tô biển số 52T5-2806, nhãn hiệu HONDA, số máy JC35E-0031078, Số khung Y-031022 (xe đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng hoạt động bên trong).

(Tất cả các vật chứng trên hiện Chi cục Thi hành án dân sự thị xã H đang quản lý).

- Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Trần N phải chịu 200.000đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 23/10/2020).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày được tống đạt hợp lệ

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

127
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 50/2020/HS-ST

Số hiệu:50/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hồng Ngự - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về