Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 50/2019/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ L, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 50/2019/HS-ST NY 21/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 8 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã L xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 52/2019/TLST-HS ngày 10 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 53/2019/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:

NGUYỄN VĂN T - Sinh năm 1993 tại Bình Thuận Nơi cư trú: Khu phố 4, phường Phước Hội, thị xã L, tỉnh Bình Thuận; Nghề nghiệp: Lao động biển; Trình độ học vấn: 0; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Trịnh Văn P (đã chết) và bà: Nguyễn Thị H, sinh năm 1965; Gia đình có 02 anh, em; Bị cáo là con đầu.

Vợ, con: không.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt vào ngày 08/5/2019, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an thị xã L (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ 00' ngày 13/4/2019, bị cáo T đi đến khu vực xóm Sình ở phường Bình Tân, thị xã L để mua ma túy sử dụng. Khi đến nơi, T gặp và mua của một người đàn ông (không rõ lai lịch) một bịch ma túy đá với giá 200.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, T đem về để vào trong góc tủ treo quần áo của nhà mình. Đến khoảng 11 giờ, Công an phường Phước Hội tiến hành kiểm tra thì phát hiện thấy T đang tàng trữ trái phép chất ma túy nên lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ tang vật là 01 bịch nylon được hàn kín có kích thước (01 x 4,5) cm rồi chuyển cho cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã L để xử lý theo thẩm quyền.

Tại bản kết luận giám định số: 349/KLGĐ - PC 09 ngày 18.4.2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Thuận thể hiện:

* Đối tượng giám định: 01 (một) phong bì được niêm phong còn nguyên vẹn, có các chữ ký ghi tên: Trần Nguyễn Đăng K, 02 (hai) dấu vân tay màu đỏ ghi "ngón trỏ trái ngón trỏ phải của Nguyễn Văn T" và hình dấu tròn màu đỏ của cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thị xã L. Trong phong bì có 01 (một) gói nylon được hàn kín, bên trong chứa tinh thể màu trắng (ký hiệu M).

* Kết luận giám định: mẫu M gửi giám định có khối lượng 0,2109 gam là Methamphetamine.

Về vật chứng vụ án: 0,2109 Methamphetamine, sau giám định được niêm phong trong phong bì số 349, có chữ ký của giám định viên Đinh Trung H và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận.

Tất cả các vật chứng trên đều đã được Cơ quan CSĐT Công an thị xã L chuyển cho Chi cục Thi hành án dân sự thị xã L theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 09/7/2019.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn T khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên, không có ý kiến hay khiếu nại gì với kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận.

Sau khi phân tích, đánh giá khách quan, toàn diện, đầy đủ những chứng cứ xác định có tội; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; nhân thân bị cáo; tội danh, hình phạt, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã L giữ quyền công tố kết luận:

Khoảng 11 giờ 00' ngày 13/4/2019, tại khu phố 4, phường Phước Hội, thị xã L Nguyễn Văn T có hành vi đang tàng trữ trái phép 0,2109 gam là Methamphetamine để sử dụng thì bị Công an phường Phước Hội phát hiện bắt quả tang, thu giữ tang vật rồi chuyển cho cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã L để xử lý theo thẩm quyền.

Vì vậy, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã L giữ nguyên quan điểm truy tố như nội dung bản Cáo trạng số: 53/CT-VKS ngày 08/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã L truy tố bị cáo Nguyễn Văn T, về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T, phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Phạt bị cáo Nguyễn Văn T, mức án từ: 24 đến 30 tháng tù.

Biện pháp tư pháp: Áp dụng: Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

Tịch thu tiêu hủy: 0,2109 gam Methamphetamine, sau giám định được niêm phong trong phong bì số 349, có chữ ký của giám định viên Đinh Trung H và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn T đồng ý với nội dung luận tội của đại diện Viện kiểm sát, không có ý kiến tranh luận.

Lời sau cùng của bị cáo Nguyễn Văn T: Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để sớm về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã L, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã L, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án: Xét lời khai của bị cáo Nguyễn Văn T tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, đủ cơ sở kết luận: Khoảng 11 giờ 00' ngày 13/4/2019, Công an phường Phước Hội, thị xã L phát hiện bắt quả tang Nguyễn Văn T có hành vi đang tàng trữ trái phép 0,2109 gam là Methamphetamine tại khu phố 4, phường Phước Hội, thị xã L.

Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam. Như vậy, hành vi trên của bị cáo Tài đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã L truy tố đối với bị cáo Nguyễn Văn T về tội danh, điều luật áp dụng là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội: Hành vi mà bị cáo T thực hiện là nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, vi phạm chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Ma túy hủy hoại sức khỏe của bản thân người nghiện, đồng thời, là tiền đề của nhiều loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác. Xét thấy, địa bàn thị xã L tình hình tội phạm ma túy diễn biến hết sức phức tạp, cần phải xử lý nghiêm khắc bị cáo Nguyễn Văn T để không chỉ nhằm mục đích trừng trị hành vi phạm pháp của bị cáo, cải tạo và giáo dục bị cáo T trở thành công dân sống lành mạnh, có ích cho xã hội mà còn để lập lại trật tự công cộng, phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Đối với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo T không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Đối với tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo T thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, cần cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo có nghề nghiệp, thu nhập không ổn định. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: 0,2109 gam là Methamphetamine, sau giám định được niêm phong trong phong bì số 349, có chữ ký của giám định viên Đinh Trung H và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ nên cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

- Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015;

- Điều 135 và Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

- Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự;

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị tạm giữ là ngày 08/5/2019.

Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy: 0,2109 gam là Methamphetamine, sau giám định được niêm phong trong phong bì số 349, có chữ ký của giám định viên Đinh Trung H và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận.

(Tất cả các vật chứng hiện đang được tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã L theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 09/7/2019 giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã L và Chi cục Thi hành án dân sự thị xã L).

Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Văn T có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (21/8/2019).

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

126
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 50/2019/HS-ST

Số hiệu:50/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị Xã La Gi - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về