Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 496/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 496/2022/HS-ST NGÀY 28/11/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 11 năm 2022 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 491/2022/TLST-HS ngày 28 tháng 10 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 428/2022/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 11 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lục Văn Đ, tên gọi khác: không; sinh ngay 01 tháng 5 năm 1972; giơi tinh: nam; nơi cư trú: Tiểu khu 2, thị trấn P, huyện S, tỉnh Bắc Kạn;

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Nùng; Tôn giáo: không;trình độ văn hóa: 8/12; nghề nghiệp: không; con ông: Lục Văn H (đã chết); con bà: Long Thị L, sinh năm 1940; gia đình có 04 chị em, Bị cáo là con thứ ba; vợ, con: chưa có.

- Tiền án: 01 (Tại bản án số 15 ngày 22/8/2013 của Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh Bắc Kạn, Lục Văn Đ bị xử phạt 08 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 06/10/2019. Chưa thi hành khoản tiền phạt và án phí.

- Tiền sự: Không.

- Nhân thân:

+ Tại bản án số 11 ngày 20/10/1995 của Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh Bắc Kạn xử phạt Lục Văn Đ 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản công dân”.

+ Tại bản án số 13/HSST ngày 25/10/2001 của Toàn án nhân dân huyện S, tỉnh Bắc Kạn xử phạt Lục Văn Đ 42 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và “Trốn khỏi nơi giam”. Tại bản án số 33/HSPT ngày 05/12/2001 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Kạn giữ nguyên hình phạt tù của bản án hình sự sơ thẩm số 13 ngày 25/10/2001 của Toà án nhân dân huyện S, xử phạt Lục Văn Đ 42 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và “Trốn khỏi nơi giam”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 01/9/2004. Chấp hành xong án phí và tiền phạt năm 2012.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/9/2022 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại Tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên (có mặt tại phiên tòa)

+ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Hoàng Cao C – sinh năm 1990 Địa chỉ: Xóm P, xã P, huyện T, tỉnh Thái Nguyên Hiện đang bị tạm giam trong vụ án khác tại nhà tạm giữ lưu giam Công an huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên (vắng mặt tại phiên tòa)

- Người chứng kiến: Ông Tô Vĩnh H, sinh năm 1968 Địa chỉ: Tổ 15, phường T, TP.N, tỉnh Thái Nguyên (vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 8 giờ 40 phút ngày 03/9/2022, tổ công tác của Công an phường T, thành phố N làm nhiệm vụ tuần tra kiểm soát tại khu vực thuộc tổ 2 của phường thì phát hiện 01 người đàn ông điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 20B2 – xxxxx có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy nên yêu cầu dừng xe để kiểm tra, người đàn ông khai tên là Lục Văn Đ và tự giác lấy từ túi quần phía sau bên phải đang mặc giao nộp cho tổ công tác 01 gói giấy màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng. Đ khai nhận đó là ma túy Heroine vừa mua để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Đ, thu giữ vật chứng theo quy định. Ngoài ra tổ công tác còn tạm giữ của Đ 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Blade biển kiểm soát 20B2 – xxxxx.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N tiến hành cân xác định: Toàn bộ số chất bột màu trắng thu giữ của Đ có khối lượng là: 0,267 gam, lấy toàn bộ đưa vào bì niêm phong ký hiệu A gửi giám định.

Tại bản kết luận giám định số 1374/KL-KTHS ngày 11/9/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu A gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng thu giữ ban đầu là 0,267 gam.

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, Lục Văn Đ khai nhận: Khoảng 08 giờ ngày 03/9/2022, Đ điều khiển xe mô tô BKS 20B2 – xxxxx là xe Đ mượn của cháu ruột là Hoàng Cao C đi từ khu vực đê Mỏ Bạch thuộc phường T, thành phố N đến khu vực Cổng trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên mục đích tìm mua ma túy sử dụng cho bản thân. Đến nơi, Đ gặp và mua của một người phụ nữ không quen biết được 01 gói ma túy Heroine được bọc gói bên ngoài bằng lớp giấy màu trắng, với số tiền 100.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, Đ cất giấu vào túi quần phía sau bên phải đang mặc rồi điều khiển xe đi tìm nơi sử dụng. Khi Đ đi đến khu vực thuộc tổ 2 phường T, thành phố N thì bị tổ công tác của Công an phường T, thành phố N phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng như nêu trên.

Vật chứng:

- 02 bì niêm phong ký hiệu A1, A.

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, số loại Blade, màu sơn đen – bạc, biển kiểm soát 20B2-xxxxx, số khung RLHJA3656GY108446, số máy JA36E0582027, xe cũ đã qua sử dụng. Quá trình điều tra xác định xe mô tô trên là của anh Hoàng Cao C (sinh năm: 1990, HKTT: Xóm P, xã P, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên).

Lời khai của anh Hoàng Cao C xác định anh là chủ xe mô tô Honda Blade biển kiểm soát 20B2 – xxxxx. Chiếc xe này do anh mua từ năm 2018. Đầu tháng 6/2022, anh cho cậu ruột mượn xe để làm phương tiện đi lại. Việc bị cáo Đ sử dụng xe để đi mua ma túy, anh không được biết. Anh đề nghị cho anh xin lại chiếc xe để quản lý, sử dụng.

Tại bản Cáo trạng số 498/CT-VKSTPTN ngày 27/10/2022,Viện Kiểm sát nhân dân thành phố N, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố Lục Văn Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố N sau khi phân tích nội dung vụ án, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội cũng như nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lục Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51,điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lục Văn Đ từ 24 đến 30 tháng tï. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Đề nghị áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 47 Bộ luật hình sự: Tịch thu tiêu hủy 02 bì niêm phong kí hiệu A1, A. Trả cho anh Hoàng Cao C chiếc xe mô tô Honda Blade biển kiểm soát 20B2 - xxxxx. Về án phí, đề nghị áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, buộc bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định.

Trong phần tranh luận, bị cáo không có ý kiến gì tranh luận.

Trong phần lời nói sau cùng, bị cáo xin được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1].Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng: Quá trình khởi tố vụ án, điều tra, truy tố và xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác trong vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan và người tiến hành tố tụng thực hiện trong vụ án đảm bảo hợp pháp và đúng quy định của pháp luật.

[2]. Về nội dung vụ án: Hồi 8 giờ 40 phút ngày 03/9/2022, tại khu vực tổ 2, phường T, thành phố N, Lục Văn Đ có hành vi tàng trữ 0,267 gam chất ma túy, loại Heroine mục đích để sử dụng cho bản thân nhưng chưa kịp sử dụng thì bị tổ công tác của Công an phường T, thành phố N phát hiện bắt quả tang, thu giữ niêm phong vật chứng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lơi khai nhân tôi cua bi cao phu hơp vơi biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, lơi khai tai cơ quan điều tra, lơi khai cua người chưng kiến, vật chứng đã thu giữ, bản kết luân giam đinh và những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Xét thấy, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng các chất ma túy, là nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm khác, gây mất trật tự trị an ở địa phương.Vì vậy, việc truy tố để xét xử đối với bị cáo về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

Nội dung Điều 249 Bộ luật hình sự quy định như sau:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển ..., thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm” ...

c) Heroine... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

[3]. Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy:

Bị cáo có 01 tiền án về tội mua bán trái phép chất ma túy. Bị cáo không có tiền sự nhưng có nhân thân xấu, đã bị xét xử về các tội: Trộm cắp tài sản công dân, Tàng trữ trái phép chất ma túy, Trốn khỏi nơi giam và đã phải chấp hành hình phạt tù của nhiều bản án nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà còn tiếp tục phạm tội. Điều đó chứng tỏ bị cáo coi thường pháp luật.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự Trên cơ sở xem xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử thấy, cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, buộc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự, bị cáo còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, bị cáo cất giữ ma tuý với mục đích để sử dụng cho bản thân, không có mục đích bán để kiếm lời, mặt khác, bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4]. Vật chứng của vụ án: Đối với 02 phong bì niêm phong kí hiệu A1, A bên trong chứa ma túy còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu ban đầu là vật chứng của vụ án không có giá trị và giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với chiếc xe mô tô Honda Blade biển kiểm soát 20B2-xxxxx, màu sơn đen – bạc, số khung RLHJA3656GY108446, số máy JA36E0582027 quá trình điều tra xác định chiếc xe mô tô trên là của anh Hoàng Cao C là cháu ruột của bị cáo. Đầu tháng 6/2022, anh C cho bị cáo là cậu ruột mượn xe để làm phương tiện đi lại. Việc bị cáo Đ sử dụng xe để đi mua ma túy, anh C không biết, anh đề nghị được xin lại chiếc xe để sử dụng. Xét thấy đề nghị của anh C là có căn cứ chấp nhận nên trả cho anh C chiếc xe mô tô Honda Blade biển kiểm soát 20B2- xxxxx.

[5] Về án phí, quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm sung quỹ Nhà nước theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Cần tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Xét đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa về điều luật áp dụng, hình phạt và các nội dung khác đối với bị cáo là có căn cứ, tương xứng với hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo.

Trong vụ án này, bị cáo Đ khai mua ma túy của 01 người phụ nữ không rõ lai lịch địa chỉ ở khu vựccổng trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên. Quá trình điều tra không xác định được lai lịch địa chỉ của người này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên không có cơ sở điều tra làm rõ xử lý.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự, Tuyên bố: Bị cáo Lục Văn Đ phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt: Lục Văn Đ 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03/9/2022. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Áp dụng Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự, tiếp tục tạm giam bị cáo 45 (bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2. Vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 02 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn ký hiệu A1, A.

Trả cho anh Hoàng Cao C chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Blade, biển kiểm soát 20B2-xxxxx, màu sơn đen - bạc, số khung RLHJA3656GY108446, số máy JA36E0582027.

(Số vật chứng nêu trên đang được bảo quản tại kho của Chi cục thi hành án dân sự TP N. Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng số 98 ngày 11/11/2022 giữa cơ quan Công an TP N và Chi cục Thi hành án dân sự TP N).

3. Án phí:Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Bị cáo Lục Văn Đ phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách Nhà nước.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Hoàng Cao C có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

54
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 496/2022/HS-ST

Số hiệu:496/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/11/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về