Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 492/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VINH - TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 492/2020/HS-ST NGÀY 02/10/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 02 tháng 10 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 470/2020/HSST ngày 18 tháng 9 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 643/2020/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 9 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lương Thị T; Sinh ngày: 14 tháng 4 năm 1999 tại huyện Quỳ H, tỉnh Nghệ An; Nơi ĐKNKTT: xóm B, xã C, huyện Quỳ H, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 09/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lương Văn Đ và bà Ngân Thị T; Chồng, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự, nhân thân: Không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày từ ngày 07/8/2020 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Lê Đăng T, Luật sư công tác tại Đoàn luật sư tỉnh Nghệ An; Cộng tác viên của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Nghệ An (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 15 giờ 40 phút, ngày 07 tháng 8 năm 2020, khi Lương Thị T đang đứng trước nhà số xx, đường Lê Viết T, xóm Xuân H, xã Hưng Lộc, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An thì bị Công an xã Hưng Lộc, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An bắt quả tang đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Quá trình bắt giữ Lương Thị T thả từ tay phải của mình xuống đường ngay cạnh vị trí T đang đứng một gói Potylen màu trắng, bên trong chứa 06 (sáu) viên nén hình tròn màu hồng. Lương Thị T khai nhận 06 (sáu) viên nén hình tròn màu hồng là Ma túy do một người bạn mới quen tên là Hải (T không biết rõ lai lịch, địa chỉ cụ thể ) cho T để sử dụng. Công an xã Hưng Lộc, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Lương Thị T và lập biên bản niêm phong vật chứng.

Kết luận giám định số 1146/KL - PC09(Đ2 - MT) ngày 10/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: Mẫu viên nén hình tròn màu hồng thu giữ của Lương Thị T gửi tới giám định là ma túy (Methamphetamine) có tổng khối lượng là 0,565 gam.

Bản Cáo trạng số 360/CT-VKS-HS ngày 06 tháng 7 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An truy tố: Lương Thị T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh giữ quyền công tố luận tội tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1,2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt Lương Thị T từ 12 đến 15 tháng tù.

Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy đã được niêm phong dán kín thu giữ của bị cáo.

Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội: Buộc các bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định pháp luật.

Luật sư bào chữa cho bị cáo: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo là người dân tộc, ở vùng cao, gia đình thuộc hộ cận nghèo, sau khi phạm tội đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, chưa có tiền án tiền sự, gia đình bị cáo có công với cách mạng nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và cho bị cáo được hưởng mức án như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

Tại phiên tòa, bị cáo hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã quy kết. Bị cáo nhất trí như lời bào chữa của luật sư và không tranh luận gì mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố Vinh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung:

[2.1] Tại phiên tòa, bị cáo hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, truy tố, phù hợp với lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, tranh tụng tại phiên toà. Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 15 giờ 40 phút ngày 07/8/2020, trước số 36 đường Lê Viết Thuật, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, Lương Thị T có hành vi tàng trữ trái phép 0,565 gam ma túy (Mehtamphetamine) để sử dụng thì bị bắt quả tang. Vì vậy, hành vi của bị cáo Lương Thị T bị Viện kiểm sát nhân dân nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An truy tố về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2.2] Xét tính chất vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo thấy rằng:

Vụ án thuộc trường hợp nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy. Bị cáo nhận thức được tác hại do ma túy mang lại cho con người và xã hội nhưng không chịu rèn luyện tu dưỡng mà sa vào con đường nghiện ma túy dẫn đến phạm tội. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết mới đủ răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, gia đình bị cáo có công với cách mạng nên bị cáo được hưởng những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[2.3] Trong vụ án này, theo lời khai của Lương Thị T nguồn gốc số ma túy bị thu giữ là của một người đàn ông tên Hải cho nhưng bị cáo không rõ lai lịch địa chỉ của người này nên không có cơ sở để xử lý theo quy định của pháp luật.

[2.4] Về vật chứng của vụ án: Ma túy là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

[2.5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật. [2.6] Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lương Thị T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Lương Thị T 13 (Mười ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 07/8/2020.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy số ma túy (Methamphetamine) trong phong bì thư niêm phong dán kín. Vật chứng hiện có tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Vinh theo Phiếu nhập kho vật chứng số NK 0505 ngày 22/9/2020.

- Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; khoản 1 điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Lương Thị T phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo Bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

150
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 492/2020/HS-ST

Số hiệu:492/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vinh - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về