Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 49/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN Ô MÔN, THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 49/2023/HS-ST NGÀY 07/08/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 07 tháng 8 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 49/2023/TLST-HS ngày 20 tháng 7 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 57/2023/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 7 năm 2023 đối với bị cáo:

Châu Khánh T, sinh năm 1971. Nơi sinh: Cần Thơ.

Nơi đăng ký thường trú: Khu vực 14, phường C, quận Ô, thành phố Cần Thơ.

Nơi ở hiện tại: Khu vực 04, phường C, quận Ô, thành phố Cần Thơ.

Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn (văn hóa): 09/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Hoa; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Con ông Châu Bữu S, sinh năm 1936 (Chết) và Trần Thị P, sinh năm 1939 (chết); Anh chị em ruột: có 04 người, lớn nhất sinh năm 1964, nhỏ nhất sinh năm 1970; Tiền án: Không; Tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn theo Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, quyết định tạm giữ từ ngày 23/5/2023 và hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an quận Ô, thành phố Cần Thơ.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Chị Châu Xuân M, sinh năm 1970. (Có đơn xin vắng mặt) Địa chỉ: Khu V, phường C, quận Ô, thành phố Cần Thơ.

- Người làm chứng:

Anh Thái Công C, sinh năm 1990. (Vắng mặt) Địa chỉ: Khu V, phường L, quận Ô, thành phố Cần Thơ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ 00 phút, ngày 23/5/2023 Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận Ô tiếp nhận tin báo qua điện thoại từ người dân nội dung: Vào lúc 06 giờ 50 phút cùng ngày 23/5/2023 có 02 đối tượng tên Thái Công C cùng với Châu Khánh T đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, điều khiển xe mô tô biển số 65K1-025.xx. Sau khi tiếp nhận tin báo Đội cảnh sát điều tra về tội phạm ma túy Công an quận Ô kết hợp với Công an phường L, quận Ô tiến hành xác minh đến khu vực T, phường L, quận Ô tiến hành dừng xe khám xét người và phương tiện đối với T và C.

Quá trình điều tra Châu Khánh T khai nhận: Vào sáng ngày 23/5/2023 T chở Thái Công C là bạn bè quen biết ngoài xã hội đi nhờ xe để mua ma túy về sử dụng, T điều khiển xe mô tô biển số 65K1-025.xx chở Chánh ngồi phía sau đi từ quận Ô đến xã V, huyện V, thành phố Cần Thơ gặp một người phụ nữ không biết rõ họ tên và địa chỉ mua ma túy loại Heroine với số tiền 200.000 đồng, cùng lúc này thì C cũng mua ma túy của người phụ nữ trên với số tiền 200.000 đồng. Sau khi mua ma túy xong, T điều khiển xe mô tô chở C đi về, trên đường về thì T và Chánh ghé vào đoạn đường vắng thuộc huyện V nhưng không nhớ rõ địa điểm lấy ma túy ra sử dụng, Chánh thì sử dụng hết phần ma túy do C mua, còn T lấy ra một ít để sử dụng, phần còn lại T lấy giấy bạc gói lại để vào túi quần đang mặc rồi điều khiển xe chở Chánh về, đến khu vực T, phường L, quận Ô thì bị lực lượng công an dừng xe khám xét người, phương tiện và thu giữ gói ma túy trên. Mục đích mua ma túy của T mang cất giấu để sử dụng cho bản thân.

Vật chứng thu giữ: 01 (một) cục chất bột màu trắng gói trong miếng giấy bạc thu giữ trong túi quần phía trước bên trái của Châu Khánh T đang mặc; 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung màu trắng, số Imei1: 353415/08/061572/0, số Imei2: 353416/08/061572/8, gắn sim Mobifone có số seri: 8401180950128522 WD đã qua sử dụng; 01 (một) bơm kim tiêm đã qua sử dụng; Tiền Việt Nam 208.000 đồng; 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, số loại TAURUS gắn biển số 65K1-025.xx, số máy: 16SB001942, số khung: RLCS 16S40BY001733 đã qua sử dụng. Đối với Thái Công C qua khám xét không thu giữ gì.

Tại Kết luận giám định số 167/KL-KTHS ngày 29/5/2023 của Phòng K Công an thành phố C kết luận: Chất bột (dạng cục) màu trắng trong gói giấy bạc gửi giám định là ma túy, loại Heroine, khối lượng 0,1355 gam, có tên khoa học là: Diacetylmorphine, quy định tại Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất.

Đối với người phụ nữ bán ma túy cho T do T không rõ họ tên và địa chỉ nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Ô không làm việc được, khi nào làm việc được đủ căn cứ sẽ xử lý sau.

Đối với Thái Công C không có hùn tiền cùng với T để mua ma túy, số ma túy Chánh mua đã sử dụng hết nên không xem xét xử lý hình sự, cơ quan Cảnh sát điều tra công an quận Ô đã chuyển hồ sơ của C đến Công an phường L, quận Ô để xử lý theo quy định.

Tại Cáo trạng số 51/CT-VKS ngày 17/7/2023 Viện Trưởng Viện kiểm sát nhân dân quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ để xét xử Châu Khánh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Kiểm sát viên thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử sơ thẩm trình bày lời luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo theo tội danh và điều luật đã nêu trong cáo trạng. Qua đó, có phân tích về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, về nhân thân cũng như tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo mức án từ 02 (hai) năm đến 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng áp dụng: Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự đề nghị:

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) gói niêm phong được niêm phong số 167/KL-KTHS ngày 29/5/2023 của Phòng K Công an thành phố C, có chữ ký của cán bộ niêm phong Nguyễn Đoàn Trường A và có đóng dấu tròn màu đỏ của Phòng K Công an thành phố C; 01 (một) bơm kim tiêm đã qua sử dụng.

+ Đối với tài sản thu giữ của bị cáo: 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung màu trắng, số Imei1: 353415/08/061572/0, số Imei2: 353416/08/061572/8, gắn sim Mobifone có số seri: 8401180950128522 WD đã qua sử dụng; Tiền Việt Nam 208.000 đồng; 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, số loại TAURUS gắn biển số 65K1-025.xx, số máy: 16SB001942, số khung: RLCS 16S40BY001733, dung tích xilanh 114cm3 đã qua sử dụng do không liên quan đến việc phạm tội nên đề nghị trả lại cho bị cáo.

- Bị cáo thừa nhận hành toàn bộ hành vi phạm tội và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để sớm về lo cho gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an quận Ô, điều tra viên trong quá trình điều tra vụ án; của Viện kiểm sát nhân dân quận Ô Môn, Kiểm sát viên trong giai đoạn điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong vụ án. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.

[2] Về căn cứ kết tội: Lời khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo tại phiên tòa; Các biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung bị can tại cơ quan điều tra; Biên bản tiếp nhận nguồn tin về tội phạm ngày 23/5/2023; Biên bản khám xét ngày 23/5/2023; Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ ngày 23/5/2023; Biên bản mở niêm phong và giao, nhận đối tượng giám định ngày 23/5/2023; Bản Kết luận giám định số 167/KL-KTHS ngày 29/5/2023 của Phòng K Công an thành phố C; Các biên bản ghi lời khai và các tài liệu, chứng cứ khác thu thập trong hồ sơ vụ án. Đủ cơ sở kết luận:

Bị cáo đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy khối lượng là 0,1355 gam, loại Heroin do bị cáo mua về sử dụng một ít rồi cất giấu phần còn lại trong túi quần phía trước bên trái của bị cáo đang mặc để tiếp tục sử dụng, điều này cho thấy bị cáo phạm tội do lỗi cố ý.

Hành vi này của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do đó, việc truy tố, xét xử đối với bị cáo là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: Ma túy là hiểm họa lớn của toàn nhân loại, đã trực tiếp hủy hoại cuộc sống của hàng triệu con người và nó là mối đe dọa lớn đối với đời sống xã hội, đất nước. Vì vậy, Nhà nước đã có chế tài nghiêm khắc đối với loại tội phạm này. Bị cáo là người đã trưởng thành, có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, biết rõ tác hại và hậu quả của việc sử dụng trái phép chất ma túy. Bị cáo là người có nhân thân xấu, bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa đi cơ sở cai nghiện bắt buộc nhiều lần nhưng vẫn tiếp tục sử dụng trái phép chất ma túy và bị xử phạt vi phạm hành chính. Bị cáo vì muốn thỏa mãn cơn nghiện của bản thân nên đã tiếp tục vi phạm pháp luật, tiếp tục thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng.

Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến việc quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy được pháp luật hình sự bảo vệ. Đồng thời, gây ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự an toàn xã hội tại địa phương.

Do đó, để giáo dục răn đe bị cáo, góp phần đấu tranh phòng chống loại tội phạm ma túy, cần cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội, sống đặt mình trong khuôn khổ pháp luật.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa thể hiện bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đây là tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy, Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết này và xem xét tính chất, mức độ của hành vi phạm tội của bị cáo để cân nhắc hình phạt khi lượng hình.

[5] Về hình phạt bổ sung: Để tạo điều kiện thuận lợi cho bị cáo khi chấp hành án nên không phạt bổ sung đối với bị cáo như đề nghị của Kiểm sát viên là phù hợp.

[6] Về vật chứng của vụ án: Theo đề nghị của kiểm sát viên tại phiên tòa nêu trên là có cở sở, phù hợp quy định pháp luật nên được chấp nhận.

[7] Đối với người phụ nữ bán ma túy cho bị cáo, bị cáo không rõ họ tên và địa chỉ cụ thể nên Cơ quan điều tra không xác minh được. Kiến nghị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Ô tiếp tục xác minh làm rõ, khi có đủ cơ sở xử lý theo quy định pháp luật.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tuyên bố Châu Khánh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt C (hai) năm tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 23/5/2023.

Về xử lý vật chứng : Áp dụng Điều 47, 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: Mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng M1: 0,1135 gam, được niêm phong vào 01 (một) gói niêm phong số 167/KL-KTHS ngày 29/5/2023 của Phòng K Công an thành phố C, có chữ ký của cán bộ niêm phong Nguyễn Đoàn Trường A và có đóng dấu tròn màu đỏ của Phòng K Công an thành phố C; 01 (một) bơm kim tiêm đã qua sử dụng.

- Trả lại cho bị cáo: 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung màu trắng, số Imei1: 353415/08/061572/0, số Imei2: 353416/08/061572/8, gắn sim Mobifone có số seri: 8401180950128522 WD đã qua sử dụng; Tiền Việt Nam 208.000 đồng; 01 (một) xe mô tô biển số 65K1-025.xx màu trắng, nhãn hiệu YAMAHA, loại TAURUS, số máy: 16SB001942, số khung: RLCS 16S40BY001733, dung tích xilanh 114cm3 đã qua sử dụng.

(Vật chứng hiện do Chi cục Thi hành án dân sự quận Ô Môn quản lý theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 18/7/2023 của Công an quận Ô)

Về án phí sơ thẩm Áp dụng Khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:

Bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo : Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án. Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai, để xin Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

21
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 49/2023/HS-ST

Số hiệu:49/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ô Môn - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về