Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 49/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MAI CHÂU, TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 49/2023/HS-ST NGÀY 14/09/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 14 tháng 9 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 41/2023/TLST - HS ngày 16 tháng 8 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 42/2023/QĐXXST - HS ngày 31 tháng 8 năm 2023 đối với bị cáo:

Lò Văn N, sinh ngày 26 tháng 5 năm 1989, tại huyện M, tỉnh Hoà Bình; nơi cư trú: Xóm Nh, xã Ph, huyện M, tỉnh Hòa Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo:

Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lò Văn U, sinh năm 1960 và bà Hà Thị M, sinh năm 1960; bị cáo có vợ là Hà Như Q (đã ly hôn) và có 01 con; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 20/8/2015 bị Tòa án nhân dân huyện Mai Châu xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội Trộm cắp tài sản, tại Bản án số: 18/2015/HSST (đã được xóa án tích), có sử dụng nghiện chất ma túy; bị cáo bị tạm giữ ngày 04/5/2023 chuyển tạm giam ngày 13/5/2023. Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Hà Thị M, sinh năm 1960, nơi cư trú: Xóm Nh, xã Ph, huyện M, tỉnh Hòa Bình. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 00 phút ngày 04/5/2023, tổ công tác Công an huyện Mai Châu chủ trì phối hợp với Công an xã Ph và Công an thị trấn M đang làm nhiệm vụ tại tổ dân phố Ch, thị trấn M, huyện M, tỉnh Hòa Bình phát hiện Lò Văn N đang điều khiển xe đạp điện đi theo hướng từ xóm Ch, xã T đến Tổ dân phố Ch, thị trấn M có nhiều biểu hiện nghi vấn, tổ công tác yêu cầu dừng xe để kiểm tra, quá trình kiểm tra phát hiện trong túi quần của N đang mặc có 01 gói giấy màu trắng bên trong là lớp nilon màu vàng trong cùng chứa 01 viên nén màu hồng và chất bột màu trắng dạng cục. Lò Văn N khai nhận đó là chất ma túy của N mua với một người không quen biết về để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ và niêm phong vật chứng theo quy định.

Quá trình điều tra, Lò Văn N khai nhận: Trưa ngày 04/5/2023 N điều khiển xe đạp điện của mẹ đẻ đi từ nhà tại xóm Nh, xã Ph lên khu vực hồ nước xã T ven đường Quốc lộ 6 để tìm mua ma túy, khi đang đi N gặp một người đàn ông không quen biết và hỏi mua ma túy với người đó, người đó đồng ý, N đưa cho người đàn ông số tiền 200.000 đồng và nói là muốn mua ma túy tổng hợp và Heroine, người đàn ông đó cầm tiền rồi đi xuống phía dưới bờ hồ khoảng 05 phút sau quay lại đưa 01 gói ma túy cho N, N cầm gói ma túy rồi cất vào túi quần đang mặc và điều khiển xe đạp điện đi về đến Tổ dân phố Ch, thị trấn M thì bị bắt quả tang.

Tại kết luận giám định số: 196/KL-KTHS ngày 11/5/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hòa Bình kết luận: Viên nén màu hồng là vật chứng thu giữ của Lò Văn N có khối lượng 0,10 gam, là ma túy, loại Methamphetamine; Chất bột màu trắng dạng cục là vật chứng thu giữ của Lò Văn N có khối lượng 0,08 gam, là ma túy, loại Heroine.

Tại bản Cáo trạng số: 44/CT-VKS-HS ngày 15 tháng 8 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Châu truy tố Lò Văn N về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Châu luận tội giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh, hình phạt: Đề nghị tuyên bố bị cáo Lò Văn N phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt Lò Văn N từ 12 tháng đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 04/5/2023.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy không có điều kiện thi hành nên không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo.

Về vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị:

- Tuyên tịch thu toàn bộ số ma túy thu được, sau khi giám định còn lại đã hoàn trả, để tiêu hủy.

- Đối với 01 chiếc xe đạp điện màu đen – trắng, nhãn hiệu YAMAHA, xe cũ đã qua sử dụng và 01 chìa khóa xe chủ sở hữu là bà Hà Thị M, kết quả điều tra bà Mờ không liên quan gì đến hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo, đề nghị trả lại xe cho bà Hà Thị M.

Về vấn đề khác: Đối người đã bán ma túy cho Lò Văn N, quá trình điều tra không xác định được họ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ đề nghị xử lý.

Đề nghị áp dụng khoản 1 và khoản 3 Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Ý kiến của bị cáo: Bị cáo đã nhận được các văn bản tố tụng của Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án, quá trình điều tra, truy tố xét xử bị cáo đã được phổ biến quyền và nghĩa vụ, không bị ép cung, mớm cung, bị cáo đồng ý với nội dung Cáo trạng và Quyết định đưa vụ án ra xét xử, bị cáo không có ý kiến tranh luận gì, bị cáo không thuê Luật sư, không nhờ trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho mình, bị cáo do nghiện ma túy, tàng trữ để sử dụng, ngoài ra không có mục đích gì khác. Đối với xe đạp điện bị cáo sử dụng đi mua ma tuý là xe của mẹ bị cáo, việc bị cáo dùng xe đi mua ma tuý mẹ bị cáo không biết, đề nghị xem xét trả lại xe cho mẹ bị cáo.

Ý kiến của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án bà Hà Thị M: Bà M là mẹ đẻ của bị cáo. Ngày 04/5/2023 bị cáo sử dụng xe đạp điện của bà M đi mua ma tuý bà M không biết, không liên quan. Bà M đề nghị trả lại xe cho bà.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Những chứng cứ xác định có tội: Bị cáo bị bắt, bị lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tại cơ quan điều tra và phiên tòa hôm nay, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với vật chứng thu được, kết luận giám định cùng toàn bộ các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó đã có đủ căn cứ để kết luận: Ngày 04/5/2023 Lò Văn N có hành vi tàng trữ 0,1 gam ma tuý, loại Methamphetamine và 0,08 gam ma túy, loại Heroine trong túi quần đang mặc. Tổng khối lượng các chất ma tuý Lò Văn N tàng trữ là 0,18 gam. Mục đích Lò Văn N mua ma túy về là để sử dụng phục vụ nhu cầu bản thân, ngoài ra không còn mục đích nào khác. Như vậy có đủ căn cứ xác định bị cáo Lò Văn N phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[2] Chứng cứ xác định không có tội: Không có.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội: Bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật, biết rõ tác hại của ma tuý đối với bản thân, gia đình và xã hội, trong khi Nhà nước và toàn thể xã hội đang tìm mọi biện pháp phòng, chống tiến tới loại trừ tệ nạn ma tuý ra khỏi cộng đồng bởi tác hại rất lớn của nó. Bản thân bị cáo đã từng bị xử phạt tù nhưng bị cáo không tiến bộ mà trái lại cố ý phạm tội, tàng trữ trái phép chất ma tuý để sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách quản lý Nhà nước về chất ma túy.

[4] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan Điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Căn cứ quy định của Bộ luật Hình sự, cân nhắc tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội, nguyên nhân, hậu quả của hành vi phạm tội, tiền sự, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo nêu trên, xét cần xử phạt tù có thời hạn với mức án nghiêm khắc, nhưng phù hợp đối với bị cáo, nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[6] Về tội danh, điều luật áp dụng, hình phạt, hình phạt bổ sung, xử lý vật chứng, tạm giam sau khi tuyên án và về các vấn đề khác mà đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa đã có ý kiến đề nghị nêu trên. Xét thấy có căn cứ phù hợp quy định pháp luật cần xử lý, giải quyết theo hướng đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát.

[7] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[8] Về án phí: Bị cáo Lò Văn N phải nộp án phí theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại các Điều 331, 332, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh, hình phạt:

Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự:

- Tuyên bố bị cáo Lò Văn N phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

- Xử phạt bị cáo Lò Văn N 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tính từ ngày tạm giữ 04/5/2023.

2. Về xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số Heroine và Methamphetamine sau khi giám định còn lại đã hoàn trả, được niêm phong trong 01 phong bì.

- Trả lại cho bà Hà Thị M, sinh năm 1960, nơi cư trú: Xóm Nh, xã Ph, huyện M, tỉnh Hòa Bình 01 chiếc xe đạp điện màu đen – trắng, nhãn hiệu YAMAHA, xe cũ đã qua sử dụng (kèm theo 01 chìa khóa xe).

(Các vật chứng nêu trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mai Châu, tình trạng, đặc điểm cụ thể của các vật chứng được ghi trong Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số: 54/THA ngày 06/9/2023 giữa bên giao Công an huyện Mai Châu, bên nhận Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mai Châu).

3. Về án phí:

Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Bị cáo Lò Văn N phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo:

Áp dụng Điều 331, 332, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình để xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

9
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 49/2023/HS-ST

Số hiệu:49/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mai Châu - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về