Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 49/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 49/2022/HS-ST NGÀY 21/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 30/2022/TLST - HS ngày 23 tháng 3 năm 2022 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 32/2022/QĐXXST- HS ngày 08/4/2022 đối với:

Bị cáo Ngô Văn C, sinh ngày 01 tháng 6 năm 1974 tại Thái Bình. Nơi cư trú: Thôn TẤ1, xã MT, huyện KX, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ngô Minh Đ (Đã chết) và bà Nguyễn Thị D; có vợ: Nguyễn Thị L, sinh năm 1980 (Đã ly hôn); có: 02 con, con lớn sinh năm 1999, con nhỏ sinh năm 2013.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Quyết định số 53/QĐ-TA ngày 29/8/2016 của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cử, tỉnh Đồng Nai về việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với Ngô Văn C, thời hạn 18 tháng. Đến ngày 30/12/2016, Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai quyết định tạm đình chỉ chấp hành biện pháp xử lý hành chính đối với Ngô Văn C. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 17/12/2021 đến ngày 20/12/2021, chuyển tạm giam đến ngày 08/01/2022 được thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. (Bị cáo có mặt tại phiên Tòa).

* Người chứng kiến:

- Ông Đào Văn M, sinh năm 1941.

Nơi cư trú: Số nhà 63, ngõ 03, đường TQD, tổ 12, phường QT, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình.

- Ông Tống Gia N, sinh năm 1952.

Nơi cư trú: Số nhà 100, đường PBV, tổ 18, phường QT, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình.

(Có mặt: Ông N;vắng mặt: Ông M).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên Tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 17/12/2021, Ngô Văn C đi xe ôm từ nhà đến khu vực ngõ 02, đường Hoàng Công Chất, tổ 04, phường Quang Trung, thành phố Thái Bình với mục đích mua ma túyđể sử dụng cho bản thân. Tại đây, C gặp và hỏi mua của một người nam giới khoảng 30 tuổi không biết tên, địa chỉ mua với giá 200.000 đồng được một gói ma túy, loại Heroine. C cầm gói ma túy trong lòng bàn tay trái của C tìm chỗ để sử dụng. Khi C đang đi ở khu vực ngõ 12, đường Hoàng Công Chất, tổ 11, phường Quang Trung, thành phố Thái Bình thì bị Công an phát hiện bắt quả tang. Tại đây trước sự chứng kiến của ông Tống Gia Nậm và ông Đào Văn Mừng. Ngô Văn C đã tự giác đưa từ lòng bàn tay trái ra giao nộp cho tổ công tác 01 gói, bên ngoài được gói bằng giấy trắng có dòng kẻ, mở ra kiểm tra bên trong cả 02 gói đều có chứa chất bột dạng cục màu trắng, C khai là Heroine của C vừa mua mục đích về để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã niêm phong trong phong bì và có chữ ký của C và những người chứng kiến. Sau đó tổ công tác đã yêu cầu C, mời người chứng kiến về trụ sở Công an phường Quang Trung, thành phố Thái Bình để làm việc. Kiểm tra thu tại túi quần bên phải của C đang mặc 01 điện thoại nhãn hiệu Masstel màu trắng đen, ngoài ra không phát hiện và thu giữ gì.

Tại bản kết luận giám định số 449/KLGĐMT - PC09 ngày 20/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: “Vật chứng quản lý của Ngô Văn C ngày 17/12/2021” gửi giám định là ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,1652 gam.

Tại phiên Tòa bị cáo C khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình đã truy tố đối với bị cáo.

Tại bản cáo trạng số 46/CT- VKSTPTB ngày 22/3/2022, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình đã truy tố bị cáo Ngô Văn C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên Tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo C về tội danh và điều luật như bản cáo trạng số 46/CT- VKSTPTB và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Ngô Văn C. Xử phạt bị cáo C từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày chấp hành án (Trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/12/2021 đến ngày 08/01/2022). Không áp dụng hình phạt bổ sung, đề nghị xử lý vật chứng và án phí.

Bị cáo C không có ý kiến gì tranh luận với Kiểm sát viên về bản luận tội đối với bị cáo tại phiên Tòa. Bị cáo C nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên Tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên,Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố vụ án được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật về thẩm quyền, trình tự, thủ tục. Bị cáo và người chứng kiến không khiếu nại hay có ý kiến gì nên các hành vi, quyết định tố tụng trong vụ án này là hợp pháp.

[2]. Về căn cứ kết tội đối với bị cáo: Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên Tòa hôm nay phù hợp với lời khai trong giai đoạn điều tra, truy tố và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an phường Quang Trung thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình; biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ do Công an phường Quang Trung thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình lập hồi 15 giờ 45 phút ngày 17/12/2021; bản kết luận giám định 449/KLGĐMT- PC09 ngày 20/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình; lời khai của những người chứng kiến của ông Đào Văn Mừng, ông Tống Gia Nậm và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Từ những tình tiết và chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 17/12/2021, tại khu vực ngõ 12, đường Hoàng Công Chất, tổ 11, phường Quang Trung, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình, tổ công tác Công an phường Quang Trung, thành phố Thái Bình bắt quả tang Ngô Văn C có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,1652 gam, mục đích để sử dụng. Do đó, hành vi của bị cáo C đã phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người đúng tội đúng pháp luật.

Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

[2]. Đánh giá tính chất mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo C đã có hành vi tàng trữ trong người 01 gói ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,1652 gam, mục đích để sử dụng cho bản thân. Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền và các quy định của Nhà nước đối với chất ma túy gây ảnh hưởng xấu đến công tác đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy.

[3]. Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ của bị cáo: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự. Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ “Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Ông Ngô Minh Đ là bố đẻ bị cáo được nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Mĩ hạng ba hơn nữa bị cáo bị suy tim, hở van hai lá nên bị cáo được áp dụng khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4]. Về hình phạt:

[4.1]. Về hình phạt chính: Căn cứ vào tính chất mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo và nhân thân cùng các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cần thiết phải xử phạt bị cáo bằng hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo giáo dục bị cáo tạo điều kiện cho bị cáo có cơ hội cai được ma túy đồng thời có tác dụng phòng ngừa tội phạm chung.

[4.2].Về hình phạt bổ sung: Bị cáo C có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, bản thân bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên xét thấy không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5]. Về vật chứng: Đối với số Heroine, Cơ quan điều tra đã thu giữ của bị cáo C còn lại sau khi giám định là 0,1134 gam và bao gói, cần áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự để tịch thu, tiêu hủy là phù hợp với quy định của pháp luật. Đối với chiếc điện thoại nhãn hiệu Masstel màu trắng đen là tài sản thuộc sở hữu của bị cáo C không liên quan đến việc phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo chiếc điện thoại trên là phù hợp với quy định của pháp luật.

[6]. Về nguồn gốc Heroine: Tài liệu điều tra xác định bị cáo Ngô Văn C mua của một người nam giới không biết tên, tuổi, địa chỉ tại khu vực ngõ 02, đường Hoàng Công Chất, tổ 04, phường Quang Trung, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý.

[7]. Về án phí: Bị cáo C phải nộp án phí theo quy định của pháp luật. [9].Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn luật định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50; Điều 47 Bộ luật Hình sự. Điều 106; Điều 135; Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội về án phí lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Ngô Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Ngô Văn C 01 (Một) năm 01 (Một) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày chấp hành án (Trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/12/2021 đến ngày 08/01/2022).

3. Về vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy số Heroine thu được của bị cáo Ngô Văn C còn lại sau khi giám định là 0,1134 gam và bao gói.

Trả lại một chiếc điện thoại nhãn hiệu Masstel màu trắng đen cho bị cáo Ngô Văn C.

(Số vật chứng trên Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Bình đã chuyển sang Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình có đặc điểm mô tả như trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/3/2022).

4. Về án phí: Bị cáo Ngô Văn C phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo C có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm ngày 21/4/2022.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 49/2022/HS-ST

Số hiệu:49/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về