Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 49/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẠC LIÊU, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 49/2021/HS-ST NGÀY 22/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu mở phiên toà xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 44/2021/HSST ngày 13 tháng 5 năm 2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 42/2021/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần H. N, sinh năm 1992 tại Bạc Liêu; Nơi cư trú: Ấp A, xã V, huyện H, tỉnh Bạc Liêu.; Nghề nghiệp: Tài xế; Trình độ học vấn: 10/12; Dân tộc: Công giáo; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Thế P, sinh năm 1965 và bà Dương Ngọc S, sinh năm 1967; Anh, chị, em ruột: 03 người; Tiền án, tiền sự: không. Bị cáo tại ngoại (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ ngày 13/01/2021, Trần H. N cùng với Lâm H V nhậu chung tại vỉa hè thuộc Ấp A, xã V, huyện H, tỉnh Bạc Liêu. Trong lúc nhậu, N hỏi mượn chiếc xe mô tô màu xanh đen, nhãn hiệu Angel, biển số 69F8 – #### của Vinh để đi công việc nhưng thực tế là đi mua ma túy để sử dụng.

Từ Ấp A, xã V, huyện H, tỉnh Bạc Liêu N điều khiển xe mô tô nói trên đến hẻm không số thuộc khóm Y, phường A, thành phố Bạc Liêu gặp người phụ nữ (không rõ nhân thân) mua một bịch ma túy với giá 200.000 đồng rồi điều khiển xe đi tìm nơi sử dụng bị lực lượng Công an tuần tra phát hiện bắt quả tang và thu giữ tang vật có liên quan vào khoảng 01 giờ ngày 14/01/2021 tại khóm Y, phường A, thành phố Bạc Liêu.

Tại bản Kết luận giám định số 23/KLGĐ-PC09, ngày 21/01/2021, của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bạc Liêu, kết luận như sau: Chất rắn màu trắng, dạng tinh thể bên trong gói nylon (kí hiệu M) là chất ma túy; loại Methamphetamine; khối lượng 0,22018 gam.

Tại phiếu xét nghiệm miễn dịch ngày 14/01/2021, của Bệnh viện Đa khoa Bạc Liêu trong nước tiểu của Trần H. N dương tính vơi chất Methamphetamine – MET.

Tại bản Cáo trạng số 45/CT-VKSTPBL ngày 12/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bạc Liêu truy tố Trần H. N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

- Tại phiên tòa, bị cáo Trần H. N khai nhận hành vi phạm tội của mình và N xác định số ma túy bị cáo tàng trữ nhằm mục đích sử dụng cá nhân, không vì mục đích nào khác.

- Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bạc Liêu giữ quyền công tố tại phiên tòa, sau khi nêu tóm tắt nội dung và phân tích tính chất của vụ án, những tình tiết về nhân thân, tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định pháp luật vẫn giữ nguyên quan điểm theo như Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Trần H. N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Trần H. N với mức án từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu và tiêu hủy: Lượng ma túy loại Methamphetamine còn lại sau giám định có khối lượng: 0,18341 gam và các vỏ phong bì, bao gói.

Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội: Buộc bị cáo Trần H. N phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.

Đối với một xe mô tô, nhãn hiệu Angel, màu sơn xanh – đen và biển kiểm soát 69F8 – #### đã qua giám định và tra cứu thông tin không tồn tại dữ liệu trên hệ thống quản lý phương tiện giao thông đường bộ, cho nên Cơ quan điều tra đã lưu kho tiếp tục xác minh xử lý sau.

Đối với hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” của bị cáo, Cơ quan điều tra ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính là phù hợp.

Đối với người phụ nữ đã bán số ma túy cho bị cáo, không rõ nhân thân, lai lịch nên không làm việc được.

- Ý kiến tranh luận bị cáo: Cáo trạng cho rằng bị cáo thường xuyên sử dụng ma túy là không đúng, bị cáo chỉ mới sử dụng và đây là lần thứ hai sử dụng.

- Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải xin, bị cáo có ông bà là người có công cách mạng và bị cáo đã từng là quân nhân nhập ngũ Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Bạc Liêu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bạc Liêu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như cáo trạng đã truy tố; Lời khai nhận của bị cáo phù hợp và thống nhất với các lời khai tại biên bản bắt người phạm tội quả tang, tờ nhận tội, biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung trong giai đoạn điều tra. Phù hợp với các chứng cứ khác như biên bản trong quá trình điều tra, kết luận giám định và các chứng cứ thu giữ của bị cáo. Hội đồng xét xử có cơ sở kết luận:

Vào lúc 01 giờ, ngày 14 tháng 01 năm 2021, tại khóm Y, phường A, thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu Trần H. N bị bắt quả tang có hành vi tàng trữ trái phép 0,22018 gam ma túy, loại Methamphetamine. Bản thân bị cáo biết tinh thể màu trắng bị cáo tàng trữ là ma túy đá; bị cáo tàng trữ ma túy nhằm mục đích sử dụng, không nhằm mục đích khác; bị cáo nhận thức được chất ma túy là chất gây nghiện. Hành vi của bị cáo trong lần phạm tội này đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do đó Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bạc Liêu truy tố bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng người đúng tội, đúng quy định pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội là nguyên nhân gây ra các căn bệnh xã hội và các loại tội phạm khác. Khi thực hiện hành vi bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp. Vì vậy cần xử lý đối với bị cáo nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo thành công dân có ích và cũng để răn đe, phòng ngừa chung trong xã hội.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; có ông bà ngoại là người có công cách mạng và bị cáo là quân nhân nhập ngũ, ghi nhận công sức đóng góp phục vụ quân ngũ nên khi lượng hình Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết trên giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu hủy: Lượng ma túy còn lại sau giám định có khối lượng 0,18341 gam và các vỏ phong bì, bao gói.

Chiếc xe mô tô, nhãn hiệu Angel, màu sơn xanh – đen, biển kiểm soát 69F8 – #### bị cáo điều khiển đế mua ma túy là mượn của Lâm Hoàng Vinh. Lâm Hoàng Vinh hoàn toàn không biết bị cáo mượn để đi mua ma túy. Tuy nhiên, qua giám định và tra cứu thông tin không tồn tại dữ liệu trên hệ thống quản lý phương tiện giao thông đường bộ, Cơ quan điều tra đã lưu kho tiếp tục xác minh xử lý sau là phù hợp.

[5] Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[6] Các vấn đề khác:

Đối với hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” của bị cáo, Công an thành phố Bạc Liêu ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính là phù hợp.

Đối với người phụ nữ đã bán số ma túy cho bị cáo, không rõ nhân thân, lai lịch nên không làm việc được.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c Khoản 1 Điều 249, điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Trần H. N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Trần H. N 01 (một) năm tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày bị cáo chấp hành án.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy lượng ma túy còn lại sau giám định 0,18341 gam và các vỏ phong bì, bao gói (được chứa trong 01 gói niêm phong số 23/GĐ- 2021). Vật chứng nêu trên đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Bạc Liêu theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 14/5/2021.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội: Buộc bị cáo Trần H. N phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.

4. Quyền kháng cáo: Án xử công khai, bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 49/2021/HS-ST

Số hiệu:49/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bạc Liêu - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về