Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 48/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN LẠC, TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 48/2023/HS-ST NGÀY 28/11/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Lạc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 49/2023/TLST-HS ngày 02 tháng 11 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 48/2023/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo:

Bùi Trọng D (Tên gọi khác: Không), sinh ngày 03/4/1995 tại huyện T, tỉnh Hòa Bình; nơi cư trú: Xóm G, xã G, huyện T, tỉnh Hòa Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 8/12; dân tộc: Mường; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn P (đã chết) và bà Bùi Thị T; có vợ là Bùi Thị N và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Chưa bị Tòa án kết án hay bị cơ quan Nhà nước xử phạt vi phạm hành chính lần nào; bị tạm giữ ngày 23/7/2023 và chuyển tạm giam từ ngày 01/8/2023 cho đến nay. Có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo Bùi Trọng D: Ông Đàm Văn V - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh H. Có mặt.

Người chứng kiến: Anh Phạm Hữu H, sinh năm 1989; nơi cư trú: Khu T, thị trấn M, huyện T, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt, không lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ, ngày 22/7/2023, Bùi Trọng D bắt xe khách từ khu vực ngã ba thị trấn M, huyện T, tỉnh Hòa Bình lên tỉnh Sơn La để tìm mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Khi xe khách đi qua khu vực biển báo huyện V, tỉnh Sơn La khoảng 02 Km theo hướng Hòa Bình - Sơn La, D xuống xe khách. Tại đây, D gặp một người đàn ông không quen biết, làm nghề chạy xe ôm đang đứng bên phải đường Quốc lộ 6 theo hướng Hòa Bình - Sơn La. Người đàn ông có đặc điểm khoảng 40 tuổi, cao khoảng 1m65, dáng người gầy, mặc áo phông màu đen, quần bò màu xanh, đeo khẩu trang kín mặt, đi xe mô tô Wave Alpha màu xanh, không rõ biển kiểm soát. D đi đến chỗ người đàn ông và hỏi có biết chỗ nào có “đồ” (ma túy) không. Người đàn ông hỏi lại D có lấy nhiều không. D trả lời muốn lấy 500.000 (Năm trăm nghìn) đồng “trắng” (Heroine). Sau đó, D lấy số tiền 500.000 (Năm trăm nghìn) đồng đưa cho người đàn ông để mua ma túy. Người đàn ông bảo D đứng đợi, rồi điều khiển xe mô tô đi về hướng Hòa Bình - Sơn La. Khoảng 20 phút sau, người đàn ông đó quay lại đưa cho D một túi nilon màu trắng, bên trong có chứa ma túy, loại Heroine. Sau khi mua được ma túy, D lấy một phần ma túy ra sử dụng. Trong lúc sử dụng, D đã làm rơi một ít ma túy xuống đất nên đã bốc lại cho vào nilon màu đen gói lại. Sau đó, D cho cả gói ma túy được gói bằng nilon màu đen và số ma túy còn lại ở gói nilon màu trắng vào một túi nilon màu trắng, rồi cất vào túi áo khoác bò phía trong bên trái của mình đang mặc. Đến khoảng 22 giờ 40 phút ngày 22/7/2023, khi D đi xe khách về đến Km 104 + 400m, quốc lộ F thuộc địa phận xóm T, xã N, huyện T, tỉnh Hòa Bình thì bị Trạm Cảnh sát giao thông Tân Lạc phối hợp với tổ công tác của Công an huyện T và tổ công tác 223 của Công an tỉnh H ra tín hiệu dừng xe khách để kiểm tra. Quá trình kiểm tra, tổ công tác phát hiện số ma túy (Được Bùi Trọng D đựng trong một túi nilon trong suốt, hai đầu được dán kín, bên trong có 01 gói nilon màu trắng, chứa chất bột màu trắng và 01 gói nilon màu đen, chứa chất bột màu xám) mà Bùi Trọng D cất giấu trong túi áo khoác bò phía trong bên trái của mình đang mặc. Bùi Trọng D khai nhận đây là ma túy, loại Heroine, mua được để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Bùi Trọng D về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và niêm phong vật chứng theo quy định.

Tại bản kết luận giám định số 336/KL-KTHS, ngày 28/7/2023 của Phòng K Công an tỉnh H kết luận: Chất bột màu trắng ký hiệu M1 trong phong bì niêm phong gửi giám định có khối lượng 1,57g (Một phẩy năm mươi bảy gam), là ma túy, loại Heroine.

Tại bản kết luận giám định số 5592/KL-KTHS, ngày 14/8/2023 của V1 - Bộ C1 kết luận: Mẫu chất bột màu xám ký hiệu M2 gửi giám định có chứa chất ma túy Heroine, hàm lượng Heroine là 35,6%, khối lượng Heroine trong 0,17gam mẫu là 0,061gam.

Tại bản cáo trạng số 46/CT-VKS ngày 01/11/2023, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tân Lạc đã truy tố Bùi Trọng D về tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

* Tại phiên tòa, bị cáo Bùi Trọng D một lần nữa khai nhận toàn bộ hành vi của mình đã mua và tàng trữ trái phép chất ma túy như cáo trạng của Viện Kiểm sát đã truy tố. Bị cáo nhất trí với nội dung cáo trạng, không kêu oan.

* Đối với người chứng kiến là anh Phạm Hữu H vắng mặt tại phiên tòa. Lời khai của anh H và các tài liệu, chứng cứ có trong giai đoạn điều tra thể hiện: Anh H được chứng kiến Công an huyện T lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Bùi Trọng D về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và lập biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu tạm giữ của Bùi Trọng D ngày 23/7/2023. Các hoạt động tố tụng mà anh H được chứng kiến nêu trên phù hợp với các tình tiết của vụ án và đã được xem xét công khai tại phiên toà.

* Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tân Lạc thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vẫn giữ nguyên quyết định truy tố về tội danh và điều luật áp dụng. Đề nghị Hội đồng xét xử:

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Bùi Trọng D phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy; xử phạt bị cáo từ 18 (Mười tám) đến 24 (Hai mươi bốn) tháng tù.

- Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung tiền đối với bị cáo.

- Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu, tiêu hủy của bị cáo Bùi Trọng D toàn bộ khối lượng ma túy còn lại sau khi giám định, đã được niêm phong trong hai phong bì (Gồm: 01 phong bì niêm phong của Phòng K Công an tỉnh H và 01 phong bì niêm phong của V1 - Bộ C1).

Tịch thu, tiêu hủy của bị cáo Bùi Trọng D một áo khoác bò màu đen xám, đã qua sử dụng.

Trả lại cho bị cáo Bùi Trọng D một giấy chứng minh nhân dân mang tên Bùi Trọng D; một ví dạng da màu đen, đã qua sử dụng; một thẻ ngân hàng V2 có chữ BUI TRONG DUNG.

- Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

* Các ý kiến tranh luận:

Người bào chữa trình bày lời bào chữa cho bị cáo Bùi Trọng D: Nhất trí với Cáo trạng và luận tội của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tân Lạc đối với bị cáo Bùi Trọng D về tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Nhất trí với tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và xử lý vật chứng như đại diện Viện Kiểm sát đã đề nghị. Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, chưa có tiền án, tiền sự và thuộc hộ nghèo tại địa phương. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo Bùi Trọng D được hưởng mức án thấp nhất.

Bị cáo nhất trí với lời bào chữa của người bào chữa. Không bổ sung ý kiến bào chữa.

* Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đã mua và tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng cho bản thân là vi phạm pháp luật, bị cáo rất hối hận. Bị cáo xin Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất, để bị cáo sớm được trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa và các quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Các chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện Kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập là hợp pháp. Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát và những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

[2] Về chứng cứ kết tội bị cáo: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T thu thập hợp pháp gồm: Biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Bùi Trọng D ngày 23/7/2023; Vật chứng thu được của bị cáo Bùi Trọng D là một túi nilon trong suốt, hai đầu được dán kín, bên trong có 01 gói nilon màu trắng, chứa chất bột màu trắng và 01 gói nilon màu đen, chứa chất bột màu xám mà bị cáo khai là ma túy, loại Heroine, mua được để sử dụng cho bản thân; Kết luận giám định số 336/KL-KTHS, ngày 28/7/2023 của Phòng K Công an tỉnh H; Kết luận giám định số 5592/KL-KTHS, ngày 14/8/2023 của V1 - Bộ C1; Các biên bản ghi lời khai của những người tham gia tố tụng, biên bản hỏi cung bị can trong quá trình điều tra, truy tố và lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa.

Xét thấy lời khai của bị cáo Bùi Trọng D trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang. Được chứng minh bằng vật chứng thu được, các kết luận giám định chất ma túy cùng toàn bộ các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định: Vào hồi 23 giờ 40 phút ngày 22/7/2023, tại Km 104 + 400m, quốc lộ F thuộc địa phận xóm T, xã N, huyện T, tỉnh Hòa Bình. Tổ công tác của Công an huyện T phối hợp với Trạm Cảnh sát giao thông Tân Lạc và tổ công tác 223 của Công an tỉnh H đã kiểm tra và phát hiện, bắt quả tang bị cáo Bùi Trọng D có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với tổng khối lượng là 1,631g (Một phẩy sáu trăm ba mươi mốt gam) Heroine, nhằm mục đích để sử dụng cho bản thân.

Bị cáo Bùi Trọng D là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Hành vi của bị cáo tàng trữ trái phép chất ma tuý nêu trên là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách quản lý của Nhà nước đối với chất ma tuý, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy mà bị cáo đã thực hiện có đầy đủ các yếu tố cấu thành tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Bản cáo trạng và luận tội của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tân Lạc đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Các ý kiến bào chữa của người bào chữa cho bị cáo là có căn cứ, phù hợp quy định của pháp luật, được Hội đồng xét xử xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng. Bị cáo nhận thức rõ ma túy là hiểm họa của toàn thể nhân loại, là tệ nạn xã hội mà Đảng và Nhà nước ta đã và đang ra sức đấu tranh, cấm mua bán, tàng trữ, sử dụng, nhằm loại bỏ nó ra khỏi đời sống xã hội. Nhưng do nghiện ma túy, nên bị cáo vẫn cố tình mua và tàng trữ trái phép chất ma túy để nhằm mục đích sử dụng cho bản thân.

[4] Về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đó là tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, nhân thân và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cần thiết phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội với một thời gian tương xứng, đủ để cải tạo giáo dục bị cáo trở thành người công dân tốt, có ích cho xã hội và phòng ngừa chung.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo là người nghiện chất ma túy và là người dân tộc thiểu số, cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, nên đại diện Viện Kiểm sát đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung tiền đối với bị cáo là có căn cứ.

[7] Đối với người đàn ông mà bị cáo khai đã đi mua ma túy cho bị cáo: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa không xác định được tên và địa chỉ của người này, nên không xem xét xử lý trong vụ án. Khi nào cơ quan điều tra làm rõ được sẽ xem xét, xử lý sau.

[8] Xử lý vật chứng của vụ án:

Đối với một phong bì được Phòng K Công an tỉnh H niêm phong chất ma túy của bị cáo còn lại sau khi đã giám định và một phong bì được V1 - Bộ C1 niêm phong chất ma túy của bị cáo còn lại sau khi đã giám định. Xét đây là chất mà Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành, nên phải tịch thu để tiêu hủy.

Đối với chiếc áo khoác bò màu đen xám, đã qua sử dụng của bị cáo. Xét bị cáo đã tàng trữ trái phép chất ma túy trong chiếc áo này, nên phải tịch thu để tiêu hủy.

Đối với giấy chứng minh nhân dân mang tên Bùi Trọng D; một ví dạng da màu đen; một thẻ ngân hàng V2 có chữ BUI TRONG DUNG. Xét các giấy tờ và tài sản nêu trên không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, nên trả lại cho bị cáo.

[9] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án, nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38;

điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Bùi Trọng D phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Bùi Trọng D 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ (Ngày 23/7/2023).

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu, tiêu hủy toàn bộ khối lượng Heroine của bị cáo Bùi Trọng D còn lại sau khi giám định, đã được niêm phong trong một phong bì của Phòng K Công an tỉnh H. Trên phong bì ghi “Mẫu vật còn lại sau khi giám định. Vụ Bùi Trọng D, sinh năm 1995 - Có hành vi phạm tội về ma túy. Xảy ra ngày 22/7/2023 tại xã N, huyện T, tỉnh Hòa Bình”. Mép dán có dấu niêm phong của Phòng K Công an tỉnh H và chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong.

Tịch thu, tiêu hủy toàn bộ khối lượng Heroine của bị cáo Bùi Trọng D còn lại sau khi giám định, đã được niêm phong trong một phong bì số 5592/KL- KTHS của V1 - Bộ C1. Mép dán có dấu niêm phong của V1 - Bộ C1 và chữ ký, họ tên: Trương Mạnh C, Bùi Minh Đ.

Tịch thu của bị cáo Bùi Trọng D một áo khoác bò, màu đen xám, đã qua sử dụng để tiêu hủy.

Trả lại cho bị cáo Bùi Trọng D giấy chứng minh nhân dân số 113686587 mang tên Bùi Trọng D; một ví dạng da màu đen (cũ); một thẻ ngân hàng V2 có chữ BUI TRONG DUNG.

(Các tang vật nêu trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Lạc theo biên bản giao nhận vật chứng số 05, ngày 08/11/2023 giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Lạc).

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Bùi Trọng D phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

sự.

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình để xin xét xử phúc thẩm. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

62
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 48/2023/HS-ST

Số hiệu:48/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Lạc - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về