Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 48/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LAI CHÂU, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 48/2022/HS-ST NGÀY 26/07/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 48/2022/TLST – HS ngày 16/6/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 51/2022/QĐXXST-HS ngày 12/7/2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn Th (tên gọi khác: Không); Giới tính: Nam, sinh năm 1985 tại tỉnh Lai Châu; Nơi ĐKHKTT: Tổ 23, phường Đ, thành phố L, tỉnh Lai Châu; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 7/12; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Con ông: Nguyễn Văn T (đã chết) và bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1946; Vợ: Nguyễn Thị H, sinh năm 1986; Con: Có 02 con, con lớn sinh năm 2007, con nhỏ sinh năm 2011; Gia đình có 07 anh em, bị cáo là con thứ năm trong gia đình; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 19/3/2022 đến ngày 25/3/2022 bị áp dụng biện pháp tạm giam. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu, cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 20 giờ 30 phút ngày 19/3/2022, Tổ công tác của đội Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế và ma túy, Công an thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu làm nhiệm vụ tại khu vực tổ 23, phường Đ, thành phố L, tỉnh Lai Châu thì phát hiện, bắt quả tang Nguyễn Văn Th đang tàng trữ trái phép 01 gói được gói bên ngoài bằng hai lớp giấy màu bạc, bên trong là 65 viên nén hình tròn màu hồng và chất bột màu hồng ở trong lòng bàn tay trái của Thục. Tại Cơ quan điều tra Thục khai nhận, gói Tổ công tác thu giữ của Thục là ma túy tổng hợp, mục đích Thục tàng trữ là để sử dụng cho bản thân. Về nguồn gốc số ma tuý Thục có được là do:

Vào khoảng 19 giờ ngày 19/3/2022, Nguyễn Văn Th một mình đi bộ từ nhà tại Tổ 23, phường Đ, thành phố L, tỉnh Lai Châu đến khu vực Bệnh viện đa khoa tỉnh Lai Châu. Khi đi đến khu vực ngã tư giao nhau giữa đường Nguyễn Văn Linh và đường 30/4 thuộc Tổ 23, phường Đ, thành phố L, tỉnh Lai Châu, Thục gặp một người đàn ông tên Thắng (Thục không biết họ, tuổi của Thắng) là con của ông Chiêu, nhà ở Tổ 23, phường Đ, thành phố L, tỉnh Lai Châu. Sau đó qua nói chuyện, trao đổi Thục đã mua được của Thắng 01 gói ma tuý được gói bên ngoài bằng hai lớp giấy màu bạc, bên trong là 65 viên nén hình tròn màu hồng và chất bột màu hồng với giá 1.000.000 VNĐ, mục đích để sử dụng cho bản thân. Mua được ma tuý, Thục cầm ở trong lòng bàn tay trái của mình rồi đi bộ về nhà. Hồi 20 giờ 30 phút cùng ngày 19/3/2022, khi Thục đi đến ngõ 029, đường Phạm Văn Đồng thuộc Tổ 23, phường Đ, thành phố L, tỉnh Lai Châu (cách nhà Thục khoảng 300 mét) thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu phát hiện bắt quả tang, thu giữ 01 gói ma tuý có đặc điểm như trên ở trong lòng bàn tay trái của Thục.

Kết luận giám định số 10/KLGĐ ngày 20/3/2022 của Người giám định tư pháp theo vụ việc lĩnh vực hình sự Công an thành phố Lai Châu và Kết luận giám định số 273/GĐ-KTHS ngày 23/3/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: 65 viên nén màu hồng có khối lượng là 5,76 gam, số chất bột màu hồng có khối lượng là 1,23 gam, tổng khối lượng là 6,99 gam. Mẫu viên nén màu hồng và chất bột màu hồng gửi đến giám định là ma túy, loại Methamphetamine.

Vật chứng thu giữ:

65 viên Methamphetamine khối lượng 5,76 gam, 1,23 gam bột Methamphetamine, tổng là 6,99 gam Methamphetamine. Đã trích 05 viên Methamphetamine bất kỳ (trong số 65 viên) có khối lượng 0,42 gam và toàn bộ 1,23 gam bột Methamphetamine gửi làm mẫu giám định tại Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu không hoàn lại mẫu vật gửi giám định.

Số còn lại 60 viên Methamphetamine, khối lượng là 5,34 gam; 02 (hai) mảnh giấy màu bạc và 01 (một) vỏ phong bì niêm phong vật chứng trong quá trình bắt quả tang. Hiện đang được niêm phong và bảo quản tại kho vật chứng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu chuyển Chi cục thi hành án dân sự thành phố Lai Châu để xử lý theo quy định.

Cáo trạng số 31/CT- VKSTP, ngày 16/6/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lai Châu đã truy tố Nguyễn Văn Th về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

* Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lai Châu giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Th về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

- Đề nghị áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Th mức án từ 05 năm đến 06 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 19/3/2022.

- Về hình phạt bổ sung: Áp dụng khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự, không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

- Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên:

Tịch thu tiêu hủy 60 viên Methamphetamine có khối lượng 5,34 gam thu giữ của Nguyễn Văn Th còn lại sau giám định; 02 (hai) mảnh giấy màu bạc và 01 (một) vỏ phong bì niêm phong vật chứng trong quá trình bắt quả tang.

- Về án phí: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn Th khai nhận hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng truy tố đối với bị cáo.

Trong lời nói sau cùng, bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nên rất hối hận, ăn năn hối cải và mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai đã khai báo tại cơ quan điều tra về quá trình thực hiện hành vi phạm tội, cũng như vật chứng thu giữ trong vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 20 giờ 30 phút ngày 19/3/2022, tại ngõ 29, đường Phạm Văn Đồng thuộc Tổ 23, phường Đ, thành phố L, tỉnh Lai Châu, Nguyễn Văn Th đang tàng trữ trái phép 6,99 gam Methamphetamine ở trong lòng bàn tay trái của mình, mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu phát hiện bắt quả tang, thu giữ. Bị cáo Nguyễn Văn Th là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc Tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật. Do vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự;

Điều luật quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

....

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

......

g) ...Methamphetamine....có khối lượng từ 05gam đến dưới 30 gam;

.....

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, ..... hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

Do vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lai Châu truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội thấy rằng:

Vụ án có tính chất rất nghiêm trọng, hành vi mà bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm tới sự độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội, gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Chúng ta đều biết ma túy là chất gây nghiện độc hại phá hủy trực tiếp hệ thần kinh trung ương của người sử dụng, làm cho họ phụ thuộc vào chất ma túy, hủy hoại sức khỏe của những người sử dụng, làm cho họ dần dần không còn khả năng lao động và sinh sống bình thường và làm khánh kiệt kinh tế của gia đình. Việc sử dụng ma túy còn làm cho người sử dụng không thể điều khiển được hành vi của mình và có thể dẫn đến các hành vi nguy hiểm cho bản thân và cho xã hội. Vì vậy Đảng và Nhà nước ta đã và đang tích cực phòng chống để đẩy lùi và loại trừ ma tuý ra khỏi đời sống xã hội. Bị cáo nhận thức được tác hại của ma túy gây ra nhưng chỉ vì thích ăn chơi đua đòi mà bị cáo đã sa vào con đường nghiện chất ma túy và để thỏa mãn cho nhu cầu của bản thân nên bị cáo đã bất chấp các quy định của pháp luật cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Do đó cần có mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện để có tác dụng giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, đồng thời nhằm răn đe và phòng ngừa chung trong xã hội. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cần xem xét toàn diện về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với bị cáo.

[4] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự;

Về nhân thân: Bị cáo không có tiền án, tiền sự.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự thì bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là lao động tự do, hoàn cảnh kinh tế khó khăn. Vì vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[6] Về vật chứng vụ án:

65 viên Methamphetamine khối lượng 5,76 gam, 1,23 gam bột Methamphetamine, tổng là 6,99 gam Methamphetamine. Cơ quan điều tra đã trích 05 viên Methamphetamine bất kỳ (trong số 65 viên) có khối lượng 0,42 gam và toàn bộ 1,23 gam bột Methamphetamine gửi làm mẫu giám định tại Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu không hoàn lại mẫu vật gửi giám định, do đó Hội đồng xét xử không xem xét. Số còn lại 60 viên Methamphetamine có khối lượng 5,34 gam là chất ma túy Nhà nước cấm lưu hành, do đó cần tịch thu tiêu hủy;

02 (hai) mảnh giấy màu bạc và 01 (một) vỏ phong bì niêm phong vật chứng. Xét đây là vật chứng không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy;

[7] Đối với đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lai Châu là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận.

[8] Trong vụ án này:

Theo lời khai của bị cáo Nguyễn Văn Th thì nguồn gốc 6,99 gam Methamphetamine Cơ quan điều tra thu giữ của Thục là do Thục mua của một người đàn ông tên Thắng (Thục không biết họ, tuổi của Thắng) là con của ông Chiêu nhà ở Tổ 23, phường Đ, thành phố L, tỉnh Lai Châu. Kết quả điều tra xác định tại Tổ 23, phường Đ, thành phố L, tỉnh Lai Châu có Nguyễn Văn Thắng, sinh năm 1987 có đặc điểm nhân thân, lai lịch phù hợp với lời khai của Thục. Tuy nhiên Thắng không thừa nhận đã bán Methamphetamine cho Thục. Ngoài lời khai của Thục không còn chứng cứ khác do đó không có cơ sở để xử lý Nguyễn Văn Thắng về hành vi Mua bán trái phép chất ma túy quy định tại Điều 251 Bộ luật hình sự.

[9] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106, Điều 135, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Th phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Th 05 (năm) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 19/3/2022.

3. Về vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong của Công an thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu. Bên trong có: 02 (Hai) mảnh giấy màu bạc, 60 viên nén hình tròn màu hồng có khối lượng 5,34 gam được gói bên ngoài bằng mảnh giấy màu trắng, ký hiệu còn lại của M1; 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng trong quá trình bắt quả tang đối với Nguyễn Văn Th. Vật chứng còn lại sau khi lấy mẫu gửi giám định thu giữ của Nguyễn Văn Th, trong quá trình bắt quả tang ngày 19/3/2022.

(Tình trạng, đặc điểm vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/6/2022, giữa Công an thành phố Lai Châu và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lai Châu).

4. Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Văn Th phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo được quyền kháng cáo lên Tòa án cấp trên trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

131
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 48/2022/HS-ST

Số hiệu:48/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lai Châu - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về