TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Thoại S, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 48/2021/HS-ST NGÀY 24/11/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong 24 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thoại S, tỉnh An Giang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 58/2021/TLST-HS ngày 03 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 46/2021/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 11 năm 2021, đối với bị cáo:
BC, sinh năm 1998 Nơi sinh: Thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.
- Nơi cư trú: khóm TK, phường MH, thành phố L, tỉnh An Giang.
Nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 05/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Đạo Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông T.N.L, sinh năm 1979 và bà T.T.T, sinh năm 1980; Anh chị em có 3 người, bị cáo là người thứ nhất; Vợ T.T.T, sinh năm 1998 (đã ly hôn); Có 01 người con, sinh năm 2016.
- Tiền sự: Ngày 20/12/2019, bị Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời gian 18 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Ngày 09/3/2021, chấp hành xong Quyết định.
- Tiền án: Không.
Bị can bị bắt tạm giam từ ngày 20/7/2021 đến nay tại Nhà tạm giữ - Công an huyện Thoại S, có mặt tại phiên tòa.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1/ LQ1, sinh năm 2004. Nơi cư trú: Số 26, LVC, Khóm 2, phường Mỹ L, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Vắng mặt.
2/ LQ2, sinh năm 1970. Nơi cư trú: Số 26, LVC, Khóm 2, phường Mỹ L, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Vắng mặt.
3/ LQ3, sinh năm 1968. Nơi cư trú: Số 26, LVC, Khóm 2, phường Mỹ L, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Vắng mặt.
- Người làm chứng: LC1, sinh năm 2003. Nơi cư trú: Khóm Đông Th 5, phường Mỹ Phước, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Vắng mặt.
Người giám hộ cho LC1: Bà N.T.V, sinh năm 1974. Nơi cư trú: Khóm ĐT5, phường MP, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 13 giờ ngày 03/5/2021, nhận được tin báo về tội phạm của người dân nên lực lượng Công an thị trấn Phú Hòa, huyện Thoại S tiến hành dừng phương tiện kiểm tra hành chính xe mô tô biển số 67H6-2665 do BC là người điều khiển chở LQ3, khi này, N lấy bao thuốc lá nhãn hiệu Jet bên trong có 01 bọc nylon trong suốt hàn kín chứa chất tinh thể màu trắng từ trong túi quần ném xuống đường nên Lực lượng tiến hành thu giữ vật chứng, đồng thời đưa N và D đến Công an thị trấn Phú Hòa làm việc. Tại đây, N khai nhận chất tinh thể màu trắng bị thu giữ là ma túy đá, N mua của một người đàn ông không rõ họ, tên, địa chỉ lúc 8 giờ cùng ngày 03/5/2021 tại khu vực cầu Thông Lưu thuộc phường Bình Khánh, thành phố Long Xuyên, với giá 700.000 đồng, sau đó N lấy một ít sử dụng chung với bạn nghiện Dư, phần còn lại cất giấu để sử dụng bị Công an phát hiện, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng.
Vật chứng thu giữ: Xe mô tô 67H6-2665, 600.000 đồng, bình nhựa dùng để sử dụng ma túy, hai vỏ thuốc hiệu Jet, sáu cái hộp quẹt.
Tại bản Kết luận giám định số 95/KLGT-PC09(MT) ngày 23/5/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh An Giang, kết luận: Mẫu M gửi đến giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 1,0104g.
Phiếu xét nghiệm ngày 04/05/2021 của Trung tâm y tế huyện Thoại S, ghi nhận: BC dương tính với Methamphetamine.
* Lời khai người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và những người làm chứng:
LQ3 trình bày việc D chứng kiến lực lượng Công an kiểm tra, phát hiện thu giữ chất ma túy của N như nội dung vụ án đã nêu.
LQ1, LQ2, LQ3(cha, mẹ của Hùng Anh) trình bày: Xe mô tô 67H6-2665 là của gia đình, do Trang đứng tên trong giấy chứng nhận đăng ký xe, ngày 03/5/2021, Hùng Anh lấy xe đi chơi và cho D mượn làm phương tiện phạm tội gia đình không biết. Đến ngày 25/5/2021, Trang được Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Thoại S trao trả lại xe mô tô.
Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra và tại phiên tòa bị cáo BC khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.
Tại bản Cáo trạng số 62/CT-VKSTS ngày 02 tháng 11 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thoại S, tỉnh An Giang truy tố bị cáo BC về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thoại S thực hành quyền công tố Nhà nước tại phiên tòa phát biểu lời luận tội đối với bị cáo và giữ nguyên truy tố như Cáo trạng. Trên cơ sở tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo như đã nêu cần thiết phải áp dụng một hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân biết tôn trọng pháp luật và nhằm răn đe, phòng ngừa chung trong xã hội. Tuy nhiên, khi lượng hình đề nghị HĐXX có xem xét, các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo: Bị cáo chưa có tiền án, xuất thân từ thành phần nhân dân lao động, học vấn thấp nên nhận thức pháp luật có phần hạn chế.
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo BC từ 01 năm đến 02 năm tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Hình phạt bổ sung: Không.
Về trách nhiệm dân sự: Không có nên không đề cập đến.
Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị: Tịch thu tiêu hủy vật chứng thu giữ trong vụ án không còn giá trị và không sử dụng được, gồm: Phong bì thư màu trắng, niêm phong, dán kín bên ngoài có ghi dòng chữ "Niêm phong vụ 95/KLGT- PC09(MT) ngày 23/5/2021, có đóng dấu tròn màu đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Thoại S và các chữ ký ghi tên Nguyễn Đăng Khoa, Trần Hữu Sĩ; bình nhựa sử dụng ma túy; hộp quẹt; vỏ thuốc hiệu Jet. Riêng, số tiền 600.000 đồng đề nghị trả lại cho bị cáo.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, mong HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về gia đình, làm lại cuộc đời và chăm lo cho con của bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:
Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Thoại S, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thoại S, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; người làm chứng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Trong vụ án này người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa, mặc dù Tòa án đã tống đạt giấy triệu tập hợp lệ. Xét thấy, sự vắng mặt của họ không gây trở ngại đến việc xét xử giải quyết vụ án, mặt khác, những người này đã có lời khai trong quá trình điều tra, khi cần thiết Hội đồng xét xử sẽ công bố lời khai của họ trước tòa. Căn cứ Điều 292, Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với vật chứng thu giữ được, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Có đủ căn cứ để xác định: Vào khoảng 13 giờ ngày 03/5/2021, tại khu vực thị trấn Phú Hòa, huyện Thoại S, tỉnh An Giang, BC đã có hành vi cất giấu trái phép 1,0104g Methampetamine, mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, vi phạm pháp luật. Hành vi nêu trên của bị cáo có đủ các yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo thực hiện hành vi do lỗi cố ý trực tiếp. Vì vậy, khẳng định Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điều luật đã viện dẫn là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, không bị oan sai.
[3] Về tính chất của vụ án: Hành vi cất giấu trái phép ma túy nhằm mục đích sử dụng của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, gây mất trật tự tại địa phương, gây D luận xấu trên địa bàn. Mặt khác, ma túy là hiểm họa của loài người, là nguyên nhân phát sinh các tệ nạn xã hội và tội phạm khác, bị cáo thiếu ý thức chấp hành pháp luật nên Bị cáo đã đi mua ma túy cất giấu để phục vụ nhu cầu bản thân sử dụng, bị cáo đã coi thường pháp luật. Chính vì vậy, bị cáo phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội mà mình đã gây ra. Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo, để giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.
[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
- Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
- Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
- Về hình phạt bổ sung: Theo Khoản 5 Điều 249 BLHS thì: "Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản". Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy: Bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập không ổn định, kinh tế gia đình khó khăn, không có tài sản riêng do đó HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[5] Về vật chứng vụ án:
- 01 (một) phong bì thư màu trắng, niêm phong, dán kín, bên ngoài có ghi dòng chữ “Niêm phong vụ 95/KLGT- PC09 (MT) ngày 23/5/2021, có đóng dấu tròn màu đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Thoại S và các chữ ký ghi tên Nguyễn Đăng Khoa, Trần Hữu Sĩ; 02 bình nhựa dùng để sử dụng ma túy (đã qua sử dụng); 02 vỏ thuốc hiệu Jet (đã qua sử dụng); 06 cái hộp quẹt (đã qua sử dụng) không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy theo quy định pháp luật.
- Đối với số tiền Việt Nam 600.000 đồng do số tiền này không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo.
Các vật chứng trên được quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/11/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thoại S với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thoại S, tỉnh An Giang.
[6] Các vấn đề khác: Đối với người bán ma túy cho Nhật, chưa rõ nhân thân nên Cơ quan điều tra không xác minh làm rõ được, nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề xem xét.
Việc N cho D sử dụng chất ma túy là vi phạm pháp luật, do cũng là người nghiện ma túy và D hiện không rõ đang ở đâu nên Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Thoại S không truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề xem xét.
[7] Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo BC phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.
2. Xử phạt: Bị cáo BC 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giam (20/7/2021).
3. Vật chứng: Áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
* Tịch thu tiêu hủy:
- 01 (một) phong bì thư màu trắng, niêm phong, dán kín, bên ngoài có ghi dòng chữ “Niêm phong vụ 95/KLGT- PC09 (MT) ngày 23/5/2021, có đóng dấu tròn màu đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Thoại S và các chữ ký ghi tên Nguyễn Đăng Khoa, Trần Hữu Sĩ;
- 02 bình nhựa dùng để sử dụng ma túy (đã qua sử dụng);
- 02 vỏ thuốc hiệu Jet (đã qua sử dụng);
- 06 cái hộp quẹt (đã qua sử dụng);
* Trả lại cho bị cáo BC số tiền 600.000 đồng (sáu trăm nghìn đồng).
Toàn bộ các vật chứng trên hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thoại S, tỉnh An Giang đang quản lý (Theo quyết định chuyển vật chứng số 52/QĐ-VKSTS ngày 02/11/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thoại S, tỉnh An Giang).
4. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136/BLTTHS, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án, bị cáo BC phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn đồng) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án về những vấn đề liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 48/2021/HS-ST
Số hiệu: | 48/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thoại Sơn - An Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/11/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về