Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 47/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐỒNG HỚI, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 47/2022/HS-ST NGÀY 08/07/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 08 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự sơ thẩm thụ lý số: 44/2022/TLST - HS ngày 03 tháng 6 năm 2022; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 56/2022/QĐXXST- HS ngày 23 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Trung T; tên gọi khác: Không; giới tính: Nam; sinh ngày 24 tháng 7 năm 1988 tại Quảng Bình; nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Tổ dân phố 6, phường B, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 11/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Xuân Á, sinh năm 1955; con bà: Trần Thị H (đã chết); gia đình có 03 chị em, T là con út trong gia đình, chưa có vợ con. Tiền án: 02 tiền án. Ngày 12/6/2007, bị Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 06/11/2007, bị Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” Cả hai bản án đều chưa chấp hành xong nghĩa vụ bồi thường dân sự.Tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 02/10/2005, bị Công an phường B, thành phố Đồng Hới xử phạt hành chính Cảnh cáo về hành vi Gây rối trật tự công cộng. Ngày 28/11/2006, bị Công an thành phố Đồng Hới xử phạt hành chính Cảnh cáo về hành vi Gây rối trật tự công cộng. Đã thi hành các quyết định xử phạt trên. Ngày 12/7/2011, bị Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới xử phạt 03 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Ngày 19/9/2011, bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xử phúc thẩm y án sơ thẩm, chấp hành án tại Trại giam Đ đến ngày 15/11/2013 ra trại, đã thi hành khoản án phí, tiền sung quỹ Nhà nước. Ngày 30/01/2015, bị Công an thành phố Đồng Hới xử phạt hành chính 750.000 đồng về hành vi đánh nhau, đã thi hành.

Bị cáo bị tam giữ, tạm giam từ ngày 18/02/2022 cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Đồng Hới. Bị cáo có mặt tại phiên tòa theo lệnh trích xuất của Tòa án.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Văn T; Sinh năm 1986; Địa chỉ: xã G, huyện Q, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 17/02/2022, tại trước số nhà 70 đường H thuộc tổ dân phố 4, phường N, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình. Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình phối hợp với Phòng PK - 02 Công an tỉnh Quảng Bình kiểm tra xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, BKS 73G1 -18.117 do Nguyễn Văn T điều khiển chở Nguyễn Trung T ngồi phía sau. Thời điểm kiểm tra phát hiện bắt quả tang Nguyễn Trung T đang có hành vi cất giấu trong túi quần phía sau bên phải 01 túi nilon bên trong chứa 12 viên nén hình tròn, dạng thuốc tân dược, màu hồng, trên một mặt mỗi viên có in chữ “WY”. T khai nhận 12 viên nén hình tròn là ma túy loại Methamphetamine.

Nguồn gốc số ma túy trên T khai nhận: Khoảng 22 giờ cùng ngày T mua của một nam thanh niên tên “C” không rõ lý lịch trên đường F325 thuộc phường B, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình với số tiền là 500.000 đồng, mục đích tàng trữ ma tuý để sử dụng cho bản thân.

Tại Bản kết luận giám định số: 255/KL-KTHS-MT ngày 23/02/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Quảng Bình kết luận: 12 viên nén hình tròn, dạng thuốc tân dược, màu hồng, trên một mặt mỗi viên đều có ký tự “WY” là ma túy Methamphetamine có tổng khối lượng 1,081 gam.

Vật chứng vụ án: Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Đồng Hới thu giữ: 01 túi nilon bên trong chứa 12 viên ma tuý loại Methamphetamine, trên một mặt mỗi viên có in chữ “WY”, khối lượng 1,081 gam, hoàn trả sau giám định 0,97 gam (ký hiệu A) và vỏ bao gói.

Tại bản Cáo trạng số: 46/CT-VKSĐH-MT ngày 02 tháng 6 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình truy tố bị cáo Nguyễn Trung T ra trước Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới để xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đồng Hới đã phát biểu lời luận tội, đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện. Giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử, xét xử bị cáo Nguyễn Trung T đúng như toàn bộ nội dung bản Cáo trạng. Quá trình điều tra, bị cáo Nguyễn Trung T thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; tiết 1, điểm h, khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; xử phạt Nguyễn Trung T từ 24-30 tháng tù.

* Vật chứng:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015:

Đề nghị tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì niêm phong số: 255/KL- KTHS-MT của Phòng kỷ thuật hình sự - Công an tỉnh Quảng Bình, trên phong bì niêm phong có ghi chữ “Mẫu ký hiệu A” bên trong chứa 0,97 (không phẩy, chín bảy gam) Methamphetamine hoàn trả sau giám định và toàn bộ võ bao gói.

* Về hình phạt bổ sung:

Do bị cáo Nguyễn Trung T không có việc làm, không có thu nhập gì nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo Nguyễn Trung T.

* Về án phí Hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Quá trình xét hỏi tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Trung T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, bị cáo Tiến nhận thức rõ việc tàng trữ trái phép chất ma tuý là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố tình thực hiện. Bị cáo đã tàng trữ ma tuý loại Methamphetamine có khối lượng là 1,081 gam. Hành vi của Nguyễn Trung T trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước đối với các loại ma tuý, đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 đúng như bản Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ các tài liệu chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Đồng Hới, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đồng Hới, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, về trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa hôm nay, sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đồng Hới công bố bản Cáo trạng bị cáo Nguyễn Trung T đã thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Trung T phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, người chứng kiến, cùng tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án, phù hợp cả về mặt thời gian, địa điểm và diễn biến quá trình phạm tội. Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở xác định:

Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 17/02/2022, tại trước số nhà 70 đường H thuộc tổ dân phố 4, phường N, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình, đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma tuý - Công an thành phố Đồng Hới phối hợp với Phòng PK - 02 Công an tỉnh Quảng Bình bắt quả tang Nguyễn Trung T đang có hành vi tàng trữ 12 viên ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 1,081 gam, mục đích để sử dụng cho bản thân.

Hành vi của Nguyễn Trung T trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước đối với các loại ma tuý đã phạm vào tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đúng như Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đồng Hới tỉnh Quảng Bình đã truy tố.

[3] Xét tính chất nguy hiểm, mức độ hậu quả của hành vi và nhân thân của bị cáo thấy rằng:

Hành vi của bị cáo Nguyễn Trung T là nguy hiểm cho xã hội, bởi lẽ ma túy là chất độc hại gây nghiện, ảnh hưởng đến sức khỏe của con người, bị cáo đã xâm hại chính sách độc quyền của Nhà nước về ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, làm phát sinh nhiều loại tội phạm hình sự khác. Bị cáo Nguyễn Trung T đã ở độ tuổi chín chắn, bị cáo đủ nhận thức để hiểu biết pháp luật. Bị cáo có 02 tiền án, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà tiếp tục phạm tội, bị cáo phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm điều đó thể hiện bị cáo coi thường pháp luật. Vì vậy, cần phải có mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Do đó, Hội đồng xét xử thấy rằng cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm tạo điều kiện cho bị cáo học tập, cải tạo phấn đấu trở thành người tốt, biết tôn trọng pháp luật.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Bị cáo Nguyễn Trung T có 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm Hình sự quy định tại tiết 1 điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Khi lượng hình cũng xem xét cho bị cáo một số tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Trung T đã có thái độ thành khẩn, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm Hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 và Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[6] Về hình phạt bổ sung:

Ngoài hình phạt chính, bị cáo Nguyễn Trung T còn phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xét thấy, bị cáo không có việc làm, không có tài sản, mục đích tàng trữ ma túy của bị cáo chỉ sử dụng cho bản thân chứ không có mục đích nào khác nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo Nguyễn Trung T

[7] Xử lý vật chứng:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015:

- Đề nghị tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì niêm phong số: 255/KL- KTHS-MT của Phòng kỷ thuật hình sự - Công an tỉnh Quảng Bình, trên phong bì niêm phong có ghi chữ “Mẫu ký hiệu A” bên trong chứa 0,97 (không phẩy, chín bảy gam) Methamphetamine hoàn trả sau giám định và toàn bộ võ bao gói.

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 08/6/2022 của Chi cục thi hành án Dân sự thành phố Đồng Hới.

[7] Án phí Hình sự sơ thẩm:

Áp dụng Điều 136 BLTTHS năm 2015; Điều 21, 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án:

Bị cáo Nguyễn Trung T phải chịu nộp số tiền là 200.000 đồng để sung quỹ Nhà nước.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh:

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Trung T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy".

2. Về Điều luật áp dụng:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; tiết 1 điểm h, khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

3. Về hình phạt:

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Trung T 24 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 18/2/2022.

Tiếp tục tạm giam bị cáo Nguyễn Trung T 45 ngày theo quyết định tạm giam của Hội đồng xét xử, để đảm bảo thi hành án.

4. Về xử lý vật chứng:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015:

- Đề nghị tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì niêm phong số: 255/KL- KTHS-MT của Phòng kỷ thuật hình sự - Công an tỉnh Quảng Bình, trên phong bì niêm phong có ghi chữ “Mẫu ký hiệu A” bên trong chứa 0,97 (không phẩy, chín bảy gam) Methamphetamine hoàn trả sau giám định và toàn bộ võ bao gói.

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 08/6/2022 của Chi cục thi hành án Dân sự thành phố Đồng Hới.

5. Về án phí Hình sự sơ thẩm:

Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 21, 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội ngày 30/12/2016 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án:

Buộc bị cáo Nguyễn Trung T phải chịu nộp số tiền là 200.000 đồng để sung quỹ Nhà nước.

Bị cáo, có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày tròn, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (08/7/2022). Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

130
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 47/2022/HS-ST

Số hiệu:47/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Hới - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về