TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIỀN HẢI, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 46/2022/HS-ST NGÀY 01/07/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 01 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số 51/2022/HSST ngày 31 tháng 5 năm 2022 theo Quyết đưa vụ án ra xét xử số 49/2022/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo Trịnh Văn D, sinh năm 1967, tại xã Đông Trà, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình.
Nơi ĐKHK: Thôn C, xã Đ, thành phố L, tỉnh Lào Cai; chỗ ở hiện nay:
Thôn Đ, xã Đ, huyện T, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trịnh Văn K (đã chết) và bà Đỗ Thị M (đã chết); vợ: Trần Thị K; Con: Có 03 con, con lớn sinh năm 1988, con nhỏ sinh năm 1998; tiền sự: Không; tiền án: Không; nhân thân: Tháng 3/1988 Trịnh Văn D nhập ngũ đóng quân tại sư đoàn 330 quân khu 9 đến tháng 7/1991 xuất ngũ về địa phương. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 23/3/2022 đến 29/3/2022 chuyển tạm giam. Hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình.
(Bị cáo được trích xuất, có mặt tại phiên toà)
- Người làm chứng:
+ Ông Nguyễn Văn M, sinh năm 1957 (vắng mặt).
Địa chỉ: Thôn T, xã Đ, huyện T, tỉnh Thái Bình.
+ Ông Lại Thế B, sinh năm 1965 (vắng mặt).
Địa chỉ: Thôn P, xã Đ, huyện T, tỉnh Thái Bình.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 14 giờ 00 phút ngày 23/3/2022 tại trục đường bê tông thuộc khu vực nhà thờ họ giáo thôn Định Cư Đông, xã Đông Trà, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Tổ công tác Đồn biên phòng Cửa Lân Bộ chỉ huy Bộ đội biên phòng tỉnh Thái Bình phối hợp với Công an huyện Tiền Hải phát hiện bắt quả tang Trịnh Văn D có hành vi tàng trữ 01gói được gói bằng giấy tráng kim màu trắng, mở ra bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng. D khai nhân đây la ma tuy D mua về với mục đích sử dụng cho bản thân. Qua giám định chất bột màu trắng dạng cục thu giữ của D là ma túy, loại Hêrôin có khối lượng 0,1018 gam.
Quá trình điều tra bị cáo Trịnh Văn D khai nhận: Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 23/3/2022 D đi bộ từ nhà ra đường sau đó đi nhờ xe của một người không quen biết đến khu vực chợ xã Đông Xuyên, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình để tìm mua ma túy về sử dụng. Khi đến khu vực chợ xã Đông Xuyên, huyện Tiền Hải thì D gặp và mua của một người đàn ông khoảng 50 tuổi, không biết tên, địa chỉ 01 gói ma túy bên ngoài được gói bằng giấy tráng kim màu trắng với giá 100.000 đồng. Sau khi mua được ma tuy, D cất vào túi áo khoác ngoài bên phải đang mặc đi về. Khi đi đến trục đường bê tông thuộc khu vực nhà thờ họ giáo thôn Định Cư Đông, xã Đông Trà, huyện Tiền Hải thì D bị tổ công tác Đồn biên phòng Cửa Lân phối hợp Công an huyên Tiên Hai phát hi ện bắt quả tang. Tổ công tác đa yêu câu D và m ời nhưng ngươi lam chưng vê U ỷ ban nhân dân xa Đông Trà đê lam viêc . D đa tư giac lấy từ trong túi áo khoác ngoài bên phải D đang mặc 01 gói bên ngoài được gói bằng giấy tráng kim màu trắng, bên trong chứa chất bột Dg cục màu trắng giao nộp cho tổ công tác và khai nhân la ma tuy D vừa mua về với muc đich đê sư dung cho ban thân nhưng chưa kịp sử dụng thì bị bắt quả tang.
Vật chứng của vụ án: Cơ quan chức năng đã lập biên bản quản lý và niêm phong vật chứng của vụ án gồm: 01 gói được gói bằng giấy tráng kim màu trắng, mở ra bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng.
Kết quả giám định: Tại bản Kết luận giám định số 93/KL – KTHS (MT) ngày 24/3/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: Mẫu vật gửi giám định là ma túy, loại Hêrôin, có khối lượng 0.1018 gam.
Tại bản Cáo trạng số 53/CT-VKSTH, ngày 31/5/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình đã truy tố Trịnh Văn D về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiền Hải vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Tuyên bố bị cáo Trịnh Văn D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;
- Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Trịnh Văn D mức án từ 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù đến 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 23/3/2022; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo và các vấn đề khác có liên quan của vụ án.
Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, bị cáo không có ý kiến, không khiếu nại gì về kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình; không tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát; bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt để có cơ hội cải tạo, sửa chữa sai lầm sớm trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tiền Hải, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiền Hải, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Trịnh Văn D tại phiên tòa phù hợp với lời khai trong giai đoạn điều tra cũng như trong giai đoạn truy tố và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ như:
- Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Đồn biên phòng Cửa Lân Bộ chỉ huy Bộ đội biên phòng tỉnh Thái Bình lập hồi 14 giờ 20 phút ngày 23/3/2022 tại Uỷ ban nhân dân xã Đông Trà, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình.
- Các biên bản tạm giữ đồ vật tài liệu, biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ do Đồn biên phòng Cửa Lân Bộ chỉ huy Bộ đội biên phòng tỉnh Thái Bình lập cùng ngày 23/3/2022 tại Uỷ ban nhân dân xã Đông Trà, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình.
- Biên bản khám xét nhà ở, đồ vật của Trịnh Văn D do Đồn biên phòng Cửa Lân Bộ chỉ huy Bộ đội biên phòng tỉnh Thái Bình lập hồi 17 giờ 15 phút ngày 23/3/2022 tại thôn Định Cư Đông, xã Đông Trà, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình.
- Bản kết luận giám định số 93/KL-KTHS (MT) ngày 24/3/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình.
- Lời khai của người làm chứng là ông Nguyễn Văn M sinh năm 1957 trú tại thôn Thành Long, xã Đông Trà, huyện Tiền Hải; ông Lại Thế B sinh năm 1965 trú tại thôn Phụ Thành, xã Đông Trà, huyện Tiền Hải.
Xét thấy các tài liệu, chứng cứ nêu trên phù hợp với nhau và phù hợp với lời khai nhận tội của bị cáo Trịnh Văn D về địa điểm, thời gian, hành vi phạm tội.
[3] Từ những căn cứ và nhận định trên Hội đồng xét xử có đủ cở sở xác định: Khoảng 14 giờ 00 ngày 23/3/2022, tại trục đường bê tông thuộc khu vực nhà thờ họ giáo thôn Định Cư Đông, xã Đông Trà, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Tổ công tác Đồn biên phòng Cửa Lân Bộ chỉ huy Bộ đội biên phòng tỉnh Thái Bình phối hợp với Công an huyện Tiền Hải phát hiện bắt quả tang Trịnh Văn D có hành vi tàng trữ 01 gói Hêrôin có khối lượng 0,1018 gam, mục đích để sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo đã phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:
1. Người nào tàng trữ trái phép mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại các Điều 248, 250, 251, 252 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
b) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao cooca có khối lượng từ 01 gam đến dưới 500 gam;
c) Hêrôin, Cocain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.
.................................................
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
[4] Đánh giá tính chất mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vi phạm pháp luật hình sự, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, ảnh hưởng đến an ninh trật tự và an toàn xã hội. Ma túy là chất độc hại gây nghiện, nó hủy hoại sức khỏe của con người, làm suy thoái nòi giống, đồng thời cũng là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác như trộm cắp tài sản, cướp tài sản, cướp giật tài sản…thậm chí là giết người, vì khi đã bị nghiện ma túy, người nghiện sẽ bị cơn nghiện thôi thúc thường bị mất hết lý trí, có thể làm bất cứ việc gì để có tiền mua ma túy để thỏa mãn cơn nghiện. Do đó mà Nhà nước ta đã nghiêm cấm hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Bị cáo là người đã trưởng thành, có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, bị cáo buộc phải nhận thức được tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, nhưng do thiếu trách nhiệm với chính mình nên bị cáo đã sa vào con đường nghiện ngập rồi dẫn đến phạm tội. Vì vậy Hội đồng xét xử cần phải áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc, cần áp dụng Điều 38 Bộ luật hình sự cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định, tương xứng với tính chất, mức độ và hậu quả của hành vi mà bị cáo đã gây ra. Có như vậy mới thể hiện được tính nghiêm minh của pháp luật nước ta và có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho gia đình, xã hội và phòng ngừa tội phạm nói chung.
[5] Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo có thời gia tham gia Quân đội nhân dân Việt Nam. Do đó bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, mục đích tàng trữ ma túy là để sử dụng cho bản thân. Bị cáo không có việc làm ổn định, điều kiện, hoàn cảnh kinh tế của bị cáo khó khăn nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo như đề nghị của đại diệnViện kiểm sát là có căn cứ là phù hợp với quy định của pháp luật.
[7] Về xử lý vật chứng: Đối với số ma túy thu giữ của Trịnh Văn D còn lại sau giám định là 0,0503 gam Hêrôin xác định là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu tiêu huỷ là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
[8] Về nguồn gốc 0,1018 gam Hêrôin mà cơ quan Công an thu giữ của Trịnh Văn D, D khai mua của một người đàn ông khoảng 50 tuổi, không biết tên, địa chỉ tại khu vực Chợ xã Đông Xuyên, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Cơ quan Cảnh sát điều tra không có đủ căn cứ điều tra, xác minh làm rõ người đã bán ma túy cho D để xử lý theo quy định của pháp luật.
[9] Về án phí: Bị cáo Trịnh Văn D phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
Điều 50; Điều 38; khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106; Điều 135; Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trịnh Văn D phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
2. Hình phạt: Xử phạt bị cáo Trịnh Văn D 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 23/3/2022.
3. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu huỷ số ma túy thu giữ của Trịnh Văn D còn lại sau giám định là 0,0503 gam Heroine đựng trong phong bì hoàn trả số 93/KL-KTHS (MT).
(Các vật chứng trên đã được Cơ quan điều tra Công an huyện Tiền Hải thu giữ, chuyển giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tiền Hải quản lý theo biên bản giao ngày 31/5/2022).
4. Án phí: Bị cáo Trịnh Văn D phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
5. Quyền kháng cáo: Bị cáo Trịnh Văn D có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 46/2022/HS-ST
Số hiệu: | 46/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tiền Hải - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 01/07/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về