Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 46/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 46/2022/HS-ST NGÀY 25/01/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 01 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 610/2021/TLST-HS ngày 14 tháng 12 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 586/2021/QĐXXST-HS ngày 24/12/2021 và Quyết định tạm ngừng phiên tòa số 72/2022/HSST-QĐ ngày 20/01/2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Việt T; Tên gọi khác: Không; sinh năm: 1989; tại Đồng Nai; Nơi cư trú: khu phố H, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 10/12; Nghề nghiệp: Không; Chức vụ: không; Con ông Nguyễn Tấn D, sinh năm: 1963 và bà Nguyễn Thị P, sinh năm: 1965; Gia đình có 04 chị em; Có vợ tên Nguyễn Ngọc T1, sinh năm 1995, có 01 con sinh năm 2014. Tiền án: Không.

Tiền sự: Ngày 06/5/2021, bị UBND phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai xử phạt hành chính 750.000đ (bảy trăm năm mươi ngàn đồng) về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”.

Bị bắt quả tang và tạm giữ từ ngày 31/8/2021, chuyển tạm giam theo Lệnh số 1048 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

Bị cáo có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Kim H, sinh năm Địa chỉ: khu phố H, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Việt T là người sử dụng trái phép chất ma túy. Vào khoảng 12 giờ 20 phút ngày 31/8/2021, T đến khu vực gần nhà nghỉ “H1” thuộc phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai mua của người tên P1 (không rõ nhân thân, lai lịch) 01 gói ma túy với giá 1.000.000đ (một triệu đồng). Sau khi mua, T đem số ma túy trên về nhà của T tại khu phố H, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai để cất giấu sử dụng.

Khoảng 18 giờ 15 phút cùng ngày, T lấy gói ma túy giấu vào túi quần đang mặc trên người và điều khiển xe mô tô biển số 60S9-56xx chạy đến khu vực thuộc tổ 14, khu phố H, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai thì gặp anh Lê Quang V, sinh năm 1999 ngụ khu phố B, phường T, thành phố B (bạn của T). Anh V nhờ T chở về nhà của anh V (anh V không biết T đang cất giấu ma túy trong người). Khoảng 18 giờ 40 phút cùng ngày, khi T chở anh V về đến khu vực đầu hẻm M khu phố B, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai thì bị Công an phường T kiểm tra phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.

* Vật chứng, tài sản đồ vật thu giữ:

- 01 gói nylon chứa tinh thể màu trắng được hàn kín (đã được niêm phong có chữ ký của Nguyễn Việt T và dấu mộc của Công an phường T).

- 01 điện thoại di động Nokia, số imei: 354884082340604, số thuê bao 0387.736.xxx và 0815.943.xxx là tài sản của T, không liên quan đến vụ án.

- 01 xe mô tô biển số 60S9-56xx, có số máy FMG-062946 và số khung PJ-062946.

*Tại Kết luận giám định số 1791/KLGĐ-PC09 ngày 08/9/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai đã kết luận:

“Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 2,3746 gam, loại: Methamphetamine”.

Tại Cáo trạng số: 614/CT-VKSBH ngày 30/11/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa đã truy tố Nguyễn Việt T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên trình bày lời luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị xử phạt Nguyễn Việt T mức hình phạt từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không nộp thêm tài liệu chứng cứ nào khác, Bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát và lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[2] Về pháp luật áp dụng và xác định tội danh:

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo phù hợp lời khai của người làm chứng và chứng cứ có tại hồ sơ Từ đó có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 18 giờ 40 phút ngày 31/8/2021, tại khu vực phía trước hẻm M, khu phố B, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai, Nguyễn Việt T đang thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 2,3746 gam ma túy loại Methamphetamine thì bị Công an phường T, thành phố B phát hiện bắt quả tang.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, là nguyên nhân làm phát sinh các loại tệ nạn xã hội. Bị cáo bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy” ngày 06/5/2021 nhưng không tu dưỡng bản thân mà tiếp tục phạm tội nên cần xử phạt bị cáo mức án thật nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm răn đe giáo dục và phòng ngừa chung.

Tình tiết tăng nặng: không.

Tình tiết giảm nhẹ: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3] Về biện pháp tư pháp:

- Đối với toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia có số imei 354884082340604, số thuê bao 0387.736.xxx và 0815.943.xxx là tài sản của bị cáo, tại phiên tòa bị cáo khai dùng vào việc phạm tội nên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

- Đối với 01 xe mô tô biển số 60S9-56xx, có số máy FMG-062946 và số khung PJ-062946 T mượn của chị Nguyễn Kim H, sinh năm 1984, ngụ tại khu phố H, phường T, thành phố B (chị của T). Quá trình điều tra, chị H khai mua của người không rõ nhân thân, lai lịch và không làm giấy mua bán, hiện chị H đã làm mất giấy chứng nhận đăng ký xe. Qua xác minh, xác định xe mô tô biển số 60S9-56xx do ông Nguyễn Văn K, sinh năm 1967, ngụ tại đường T, phường P, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai đứng tên chủ sở hữu. Ông K khai đã bán chiếc xe trên cho một người không rõ nhân thân, lai lịch vào năm 2015. Do chưa làm rõ chủ sở hữu xe nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa tách ra tiếp tục xác minh làm rõ để xử lý sau.

- Đối với đối tượng tên P1 đã bán ma túy cho T, do không rõ nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa tiếp tục xác minh để xử lý sau.

[4] Về án phí HSST: Bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Việt T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Việt T 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày 31/8/2021.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định tại gói niêm phong số 1791/KLGĐ-PC09 ngày 08/9/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai.

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia có số imei 354884082340604.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/01/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa).

3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14;

Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

50
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 46/2021/HS-ST

Số hiệu:46/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về