Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 46/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LÝ NHÂN, TỈNH HÀ NAM

 BẢN ÁN 46/2021/HS-ST NGÀY 25/08/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 25 tháng 8 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 40/2021/TLST-HS ngày 19 tháng 7 năm 2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 41A/2021/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 8 năm 2021, đối với bị cáo:

Vũ Văn T, sinh năm 1971; nơi cư trú: Thôn S, xã Đ, huyện L, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Văn C (tên gọi khác: Vũ Hồng C) và bà Trần Thị O (đều đã chết); có vợ là Ngô Lan A và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 13/6/2014, Tòa án nhân dân huyện Lý Nhân xử phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 08/6/2021 và chuyển tạm giam từ ngày 11/6/2021 đến nay;

có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Vũ Văn T: Bà Phạm Thị N - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp Pháp lý Nhà nước tỉnh Hà Nam; xin xét xử vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Ngô Lan A, sinh năm 1979;

trú tại: Thôn S, xã Đ, huyện L, tỉnh Hà Nam; có mặt.

- Người làm chứng: Ông Vũ Văn V; vắng mặt.

- Người chứng kiến: Anh Nguyễn Văn H; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 20 ngày 08/6/2021, tại khu vực thôn S, xã Đ, huyện L, tỉnh Hà Nam; tổ công tác Công an huyện Lý Nhân phối hợp với Công an xã Đ phát hiện Vũ Văn T đang điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Blade biển kiểm soát 90B3 - 135.65 có biểu hiện nghi vấn nên đã yêu cầu dừng xe để kiểm tra hành chính thì thu giữ trong lòng bàn tay phải của Vũ Văn T đang cầm 01 đoạn ống nhựa (loại ống hút nước mía) màu tím kẻ sọc trắng, dài 2,5cm, hàn kín hai đầu, bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01. Vũ Văn T khai nhận đó là ma túy, loại Heroine, T mua về để sử dụng.

Khi bắt còn thu giữ của Vũ Văn T 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6; 01 chiếc xe môtô nhãn hiệu Honda Blade biển kiểm soát 90B3 - 135.65.

Khám xét khẩn cấp nhà Vũ Văn T không thu giữ tài liệu, đồ vật gì liên quan đến vụ án.

Quá trình điều tra, chị Ngô Lan A (là vợ của Vũ Văn T) đã giao nộp 01 căn cước công dân mang tên Vũ Văn T và 01 đăng ký xe môtô nhãn hiệu Honda Blade biển kiểm soát 90B3 - 135.65 mang tên Ngô Lan A.

Tại bản kết luận giám định số 114/PC09-MT ngày 10/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận: “Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,176g (Không phẩy một trăm bảy mươi sáu gam), loại Heroine”.

Vũ Văn T khai nguồn gốc số Heroine bị thu giữ là do T mua của một người lạ mặt ở khu vực xã Chính Lý, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam với giá 100.000 đồng để sử dụng; trên đường về đến khu vực thôn S, xã Đ, huyện L, tỉnh Hà Nam thì bị bắt quả tang.

Vật chứng thu giữ: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6; 01 chiếc xe môtô nhãn hiệu Honda Blade biển kiểm soát 90B3 - 135.65; 01 căn cước công dân mang tên Vũ Văn T; 01 đăng ký xe môtô nhãn hiệu Honda Blade biển kiểm soát 90B3 - 135.65 mang tên Ngô Lan A và vật chứng hoàn lại sau giám định đã chuyển đến Chi cục Thi hành án Dân sự huyện L.

Tại bản cáo trạng số 42/CT-VKSLN ngày 19/7/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam đã truy tố Vũ Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lý Nhân giữ nguyên quan điểm truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249;

điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 - Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Vũ Văn T từ 30 tháng tù đến 36 tháng tù và hướng xử lý vật chứng của của vụ án theo quy định của pháp luật.

- Bị cáo Vũ Văn T khai nhận hành vi của mình đúng như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lý nhân đã truy tố; không có ý kiến tranh luận, bào chữa hay khiếu nại gì và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

- Tại bản luận cứ bào chữa của bà Phạm Thị N: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, bản thân bị cáo mắc bệnh hiểm nghèo, thu nhập không ổn định, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; cho bị cáo hưởng mức án thấp nhất và miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo để bị cáo có cơ hội cải tạo sớm được trở về làm lại cuộc đời.

- Chị Ngô Lan A đề nghị Hội đồng xét xử trả lại chị chiếc xe môtô nhãn hiệu Honda Blade biển kiểm soát 90B3 - 135.65 và đăng ký xe.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Về tội danh: Lời khai của bị cáo Vũ Văn T tại phiên tòa là phù hợp với biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, người chứng kiến và phù hợp với vật chứng thu được cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Do đó đủ cơ sở kết luận: Khoảng 13 giờ 20 ngày 08/6/2021, tại khu vực thôn S, xã Đ, huyện L, tỉnh Hà Nam; tổ công tác Công an huyện Lý Nhân phối hợp với Công an xã Đ bắt quả tang Vũ Văn T đang cất giữ trong lòng bàn tay phải 01 gói ma túy, loại Heroine có khối lượng 0,176 gam để sử dụng.

Hành vi nêu trên của Vũ Văn T đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Quan điểm kết tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam đối với bị cáo đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về hình phạt: Hành vi phạm tội của bị cáo Vũ Văn T là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, ảnh hưởng xấu tới tình hình an ninh trật tự địa phương gây bức xúc trong quần chúng nhân dân vì vậy phải xử phạt nghiêm khắc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có thể cải tạo được bị cáo, đồng thời có tác dụng phòng ngừa tội phạm chung.

- Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu đã bị kết án về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” nhưng đã được xóa tích.

- Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

- Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo; bản thân đang bị nhiễm HIV, có bố mẹ đẻ là ông Vũ Văn C và bà Trần Thị O tham gia dân công hỏa tuyến - Là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xét tình tiết giảm nhẹ như đã phân tích, Hội đồng xét xử cần giảm nhẹ một phần hình phạt để bị cáo yên tâm chấp hành án sớm hòa nhập cộng đồng xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo phạm tội không nhằm mục đích thu lợi nên không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[5] Về xử lý vật chứng: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 và 01 căn cước công dân mang tên Vũ Văn T không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại bị cáo Vũ Văn T - 01 chiếc xe môtô nhãn hiệu Honda Blade biển kiểm soát 90B3 - 135.65 và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mang tên Ngô Lan A. Quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của Vũ Văn T và chị Ngô Lan A. Bị cáo sử dụng chiếc xe này để thực hiện hành vi phạm tội nên tịch thu ½ giá trị chiếc xe mô tô nộp ngân sách nhà nước. Chị Ngô Lan A hoàn toàn không biết việc bị cáo sử dụng chiếc xe mô tô nêu trên để đi mua ma túy về sử dụng, để bảo đảm quyền lợi của chị A đối với tài sản chung, chị A sẽ được nhận lại số tiền bằng ½ giá trị của xe mô tô vào thời điểm Cơ quan Thi hành án dân sự quyết định thi hành án.

- Vật chứng hoàn lại sau giám định không có giá trị sử dụng, tịch thu và tiêu hủy.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo.

[8] Các vấn đề khác: Bị cáo Vũ Văn T khai mua ma túy của một người lạ mặt ở khu vực xã Chính Lý, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam; Công an huyện Lý Nhân đã tiến hành xác minh do chỉ có lời khai duy nhất của bị cáo nên không làm rõ được, do đó không có căn cứ để giải quyết là phù hợp.

Vì các lẽ trên,

 QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 - Bộ luật hình sự:

Tuyên bố bị cáo Vũ Văn T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt bị cáo Vũ Văn T 36 (ba mươi sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam 08/6/2021.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Trả lại bị cáo Vũ Văn T 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 đã qua sử dụng, màn hình bị vỡ có số IMEI 355409072728565 và 01 căn cước công dân mang tên Vũ Văn T.

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước ½ giá trị chiếc xe môtô nhãn hiệu Honda Blade biển kiểm soát 90B3 - 135.65, số khung 3649LY003241, số máy JA36E0844044 (kèm theo giấy chứng nhận đăng ký xe) vào thời điểm Cơ quan Thi hành án dân sự quyết định thi hành án.

- Trả lại chị Ngô Lan A ½ giá trị chiếc xe môtô nhãn hiệu Honda Blade biển kiểm soát 90B3 - 135.65, số khung 3649LY003241, số máy JA36E0844044 vào thời điểm Cơ quan Thi hành án dân sự quyết định thi hành án.

- Tịch thu và tiêu huỷ: 01 phong bì niêm phong dán kín số 114/PC09-MT ngày 10/6/2021 của phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hà Nam, ghi “mẫu vật hoàn trả QT01”.

(Các vật chứng nêu trên có đặc điểm, tình trạng, số hiệu được ghi trong biên bản giao, nhận vật chứng lập ngày 20/7/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra- Công an huyện Lý Nhân và Chi cục thi hành án dân sự huyện L).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/1016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo Vũ Văn T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định của các Điều 6,7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bị cáo; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 46/2021/HS-ST

Số hiệu:46/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lý Nhân - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về