Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 44/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỒNG HỶ, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 44/2023/HS-ST NGÀY 30/05/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 30 tháng 05 năm 2023, Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh T mở phiên tòa trực tuyến tại 02 điểm cầu gồm: Điểm cầu trung tâm tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh T và điểm cầu thành phần tại Nhà tạm giữ Công an huyện Đ, tỉnh T, để xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 39/2023/TLHS-ST, ngày 11 tháng 5 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 39/2023/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 5 năm 2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn G (tên gọi khác: Không) Giới tính: Nam; Sinh ngày: 12/01/1994; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Xóm T, xã V, huyện Đ, tỉnh T; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 9/12; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Bố đẻ: Nguyễn Văn L - sinh năm 1962 ; Mẹ đẻ: Hà Thị T -sinh năm 1969; Vợ: Lý Thị O, sinh năm 1996; Con: Có 02 con, con lớn sinh năm 2014, con nhỏ sinh năm 2017; Gia đình có 03 anh, em, bị cáo là con thứ ba trong gia đình; Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/02/2023 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Đ. (Có mặt tại điểm cầu thành phần).

* Người chứng kiến:

- Ông Hoàng Tiến T1, sinh năm 1965. (Vắng mặt) Trú tại: Xóm P, xã V, huyện Đ, tỉnh T.

Những người tiến hành tố tụng tại điểm cầu thành phần Nhà tạm giữ Công an huyện Đ, tỉnh T:

1. Ông Nguyễn Nam T2- Thư ký Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh T.

Những người tham gia tố tụng khác tại điểm cầu thành phần:

1. Ông Nguyễn Văn M- Chiến sỹ Công an huyện Đ, tỉnh T.

2. Ông Lý Văn T3 - Chiến sỹ Công an huyện Đ, tỉnh T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ 00 phút ngày 13/02/2023, tổ công tác Công an huyện Đ phối hợp cùng Công an xã V, huyện Đ tiến hành tuần tra, kiểm soát tại khu vực xóm T, xã V, huyện Đ, tỉnh T, phát hiện Nguyễn Văn G đang có biểu hiện liên quan đến ma túy. Tiến hành kiểm tra đối với G, G khai nhận là người nghiện ma túy rồi tự giác lấy từ trong túi quần phía trước bên phải G đang mặc 01 (một) gói nhỏ bằng túi nilon màu đen, bên trong chứa chất bột màu trắng (G khai là Heroine của G) giao nộp cho tổ công tác. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ, niêm phong vật chứng theo quy định.

Tiến hành cân xác định khối lượng số chất bột màu trắng thu giữ của G là: 0,144 gam (lấy toàn bộ làm mẫu gửi giám định ký hiệu A1).

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của G tại xóm T, xã V, huyện Đ, tỉnh T, kết quả: Không phát hiện thu giữ đồ vật gì.

Quá trình điều tra đã làm rõ: Khoảng 13 giờ 00 phút ngày 13/02/2023, G một mình đi bộ từ nhà tại xóm T, xã V, huyện Đ, tỉnh T đến khu vực chợ P thuộc xóm P, xã V, huyện Đ, tỉnh T với mục đích mua H sử dụng cho bản thân. Đến nơi, G gặp 01 người đàn ông không quen biết, qua giao dịch, người đàn ông đưa cho G 01 (một) gói nhỏ bằng túi nilon màu đen, bên trong có chứa Heroine với giá bán là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng). G cất Heroine vào trong túi quần phía trước bên phải G đang mặc. Sau đó G đi về. Khi đến đoạn đường dân sinh thuộc khu vực xóm T, xã V, huyện Đ, tỉnh T thì bị tổ công tác Công an huyện Đ yêu cầu kiểm tra và thu giữ vật chứng như đã nêu trên.

Vật chứng vụ án gồm: 02 (hai) phong bì niêm phong còn nguyên vẹn ký hiệu A1 (là phong bì chứa toàn bộ số chất bột màu trắng thu giữ của Nguyễn Văn G trong phong bì niêm phong ký hiệu QT gửi đi giám định) và LK (là phong bì chứa vỏ bì niêm phong ký hiệu QT cùng túi nilon màu đen). Hiện đang được lưu giữ, bảo quản theo quy định.

Tại bản cáo trạng số: 43/CT-VKSĐH ngày 10/5/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn G về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Xác định tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo thể hiện qua bản cáo trạng và đề nghị mức hình phạt như sau: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn G phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo G mức án từ 18 tháng đến 24 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là đối tượng nghiện, không nhằm mục đích mua bán, không có thu nhập ổn định và tài sản nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249 BLHS đối với bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 46; 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 02 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn ký hiệu A1, LK.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Trong lời nói sau cùng bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội và bị truy tố, xét xử là không oan, xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đ, Điều tra viên,Viện kiểm sát huyện Đ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa bị cáo không xuất trình thêm tài liệu chứng cứ; bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay bị cáo thừa nhận bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ đã truy tố đối với bị cáo là đúng người, đúng tội. Lời khai nhận tội của bị cáo là khách quan phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, vật chứng, kết luận giám định, lời khai của người chứng kiến và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ căn cứ xác định:

Hồi 15 giờ ngày 13/02/2023, tại khu vực xóm T, xã V, huyện Đ, bị cáo G đang có hành vi tàng trữ trong túi quần phía trước bên phải bị cáo đang mặc một gói nhỏ giấy màu trắng, bên trong có chứa chất bột màu trắng (bị cáo khai là heroine) để sử dụng cho bản thân, thì bị Công an huyện Đ phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Tiến hành cân xác định khối lượng số chất bột màu trắng thu giữ của G là: 0,144 gam (lấy toàn bộ làm mẫu gửi giám định ký hiệu: A1).

Tại Bản kết luận giám định số 405/KL-KTHS ngày 21/02/2023 của Phòng K Công an tỉnh T, kết luận: Chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu A1 gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng là: 0,144 gam.

Hành vi nêu trên của bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Điều 249 BLHS quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyn, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

....

c, H ...có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”...

Bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra theo điều luật nói trên.

[3] Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến các quy định của nhà nước về quản lý, sử dụng các chất ma túy, hành vi đó của bị cáo gây ảnh hưởng xấu, gây mất trật tự trị an xã hội ở địa phương, là nguyên nhân phát sinh của những loại tội phạm khác. Do vậy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định thì mới đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo và đấu tranh phòng ngừa chung.

[4] Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì thấy:

Về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền sự, tiền án.

Về tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định Điều 52 BLHS.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy, bị cáo là đối tượng nghiện, không nhằm mục đích mua bán ma tuý kiếm lời, không có thu nhập ổn định và tài sản nên miễn hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249 BLHS đối với bị cáo.

[6] Vật chứng của vụ án: Áp dụng 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy vật chứng không có giá trị sử dụng gồm 02 bì niêm phong còn nguyên vẹn ký hiệu A1, LK.

[7] Về nguồn gốc số Heroine, bị cáo khai mua của một người đàn ông không biết tên và địa chỉ nên không có căn cứ để điều tra xử lý đối với người đàn ông nêu trên.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Xét lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa ngày hôm nay là có căn cứ nên cần được chấp nhận.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn G phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn G 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam ngày 13/02/2023.

Áp dụng Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

Miễn hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249 BLHS đối với bị cáo. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy vật chứng không có giá trị sử dụng gồm 02 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn ký hiệu A1, LK.

(Tình trạng vật chứng như trong biên bản giao vật chứng ngày 16/05/2023 giữa Công an và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ).

Về án phí: Áp dụng Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử trực tuyến công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo báo cho biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

4
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 44/2023/HS-ST

Số hiệu:44/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đồng Hỷ - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về