Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 44/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN EA SÚP, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 44/2022/HS-ST NGÀY 05/07/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ea Súp, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 45/2022/TLST-HS ngày 20 tháng 6 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 48/2022/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo:

Giàng A V (Tên gọi khác: Không) - Sinh ngày 03 tháng 9 năm 1979, tại: tỉnh Sơn La; Nơi thường trú: Bản T, xã M, huyện M, tỉnh Thanh Hóa; Nơi ở hiện nay: Thôn A, xã C, huyện E, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 0/12; Dân tộc: Mông; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Giàng A K và con bà: Vàng Thị S. Bị cáo có vợ là Phàng Thị D và có 03 con, lớn nhất sinh năm 1998, nhỏ sinh năm 2003.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 30/10/2018 bị Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 18 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tại bản án số 34/2018/HS-ST. Ngày 22/9/2019 chấp hành xong hình phạt.

Ngày 10/6/2022 bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ea Súp ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự và Quyết định khởi tố bị can về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Bị cáo hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Ea Súp, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Giàng A V là người sử dụng ma túy, loại Heroine. Khoảng 15 giờ ngày 06/02/2022, tại đoạn đường đất phía trước nhà V tại thôn A, xã C, huyện E. V gặp một người nam thanh niên dân tộc Mông (không rõ nhân thân lai lịch), người này giới thiệu với V là quê ở Sơn La vào Đắk Lắk làm thuê (hái tiêu), nay không có tiền về quê, có một ít ma túy bán lấy tiền về quê. Do có nhu cầu sử dụng ma túy, V đồng ý mua ma túy được gói trong túi nylon màu trắng của người nam thanh niên với số tiền 400.000 đồng (Bốn trăm ngàn đồng) cất giấu để sử dụng. Sau khi bán ma túy cho V, người bán ma túy rời đi . V cất giấu gói ma túy mua được vào trong túi áo của V, treo trong nhà. Khi V mua ma túy, cất giấu ma túy thì không có người nào biết và tham gia cùng. Khoảng 11 giờ 20 phút ngày 21/02/2022, do có nhu cầu sử dụng ma túy, V lấy gói ma túy, cất giấu trong túi quần phía trước, bên phải mà V đang mặc đi ra khỏi nhà tìm nơi sử dụng thì bị bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tiến hành xét nghiệm chất ma túy đối với Giàng A V, kết quả dương tính với ma túy, loại Heroine.

Bản kết luận giám định số: 213/KL-GĐMT-PC09 ngày 01/3/2022, của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận chất rắn màu trắng được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,2750 gam, loại Heroine.

Đồ vật, tài liệu bị tạm giữ: 0,2750 gam ma túy, loại Heroine (khối lượng còn lại sau giám định là 0,2455 gam).

Tại bản cáo trạng số: 26/CT-VKS ngày 17/6/2022 Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea Súp, đã truy tố Giàng A V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo V đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như bản Cáo trạng mà Viện kiểm sát đã truy tố.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea Súp đã phân tích, chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo, giữ nguyên cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Giàng A V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo V mức án từ 18 đến 24 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy: 0,2455 gam ma túy, loại Heroine mẫu vật còn lại sau giám định.

Người bào chữa cho bị cáo Giàng A V trình bày: Việc Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea Súp truy tố bị cáo V theo khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ đúng pháp luật nên về tội danh bà không có ý kiến gì mà chỉ phân tích các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo để khi nghị án Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo: Trong quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo; Là người dân tộc thiểu số sống ở vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn trình độ nhận thức pháp luật của bị cáo rất hạn chế. Do vậy, cần áp dụng khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo được hưởng hình phạt nhẹ nhất.

Bị cáo Giàng A V không tranh luận gì, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo có cơ hội sửa chữa sai lầm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, của Viện Kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, với vật chứng thu giữ được, với bản kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên tòa, đủ cơ sở khẳng định: Khoảng 15 giờ ngày 06/02/2022, Giàng A V mua 0,2750 gam Heroine với số tiền 400.000 đồng (Bốn trăm ngàn đồng) của một người nam thanh niên không rõ nhân thân lai lịch cất giấu vào trong túi áo của mình để sử dụng, đến ngày 21/02/2022, Giàng A V mang ra sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang.

Tại Bản kết luận giám định số 213/KL-GĐMT-PC09 ngày 01/3/2022, của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận chất rắn màu trắng được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,2750gam, loại Heroine.

Như vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

“1/ Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamin, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea Súp, tỉnh Đắk Lắk truy tố bị cáo V theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, trực tiếp xâm phạm đến việc độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây ra nhiều tệ nạn xã hội, làm mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng do nghiện ma túy nên bị cáo đã cố tình phạm tội, vì vậy để đẩy lùi tệ nạn ma túy và các tệ nạn xã hội khác cần phải xử phạt bị cáo với mức án đủ nghiêm, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung trong xã hội và cũng cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo có đủ điều kiện cải tạo thành người có ích cho xã hội.

[4] Bị cáo V là người có nhân thân xấu, Ngày 30/10/2018 bị Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 18 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bị cáo không xem đó là bài học cho bản thân mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Ngày 10/6/2022 bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ea Súp ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự và Quyết định khởi tố bị can về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do đó, cần xem xét khi lượng hình đối với bị cáo.

Tuy nhiên, Hội đồng xét xử nhận thấy sau khi phạm tội bị cáo thành khẩn khai báo; Bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để thể hiện tính khoan hồng của pháp luật nhà nước ta.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo tàng trữ ma túy để sử dụng cho bản thân không mang mục đích vụ lợi, vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 0,2455 gam ma túy, loại Heroine mẫu vật còn lại sau giám định, không còn giá trị sử dụng, đã thu giữ trong quá trình điều tra là phù hợp.

[6] Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo V phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là phù hợp.

Về nguồn gốc ma túy: Bị cáo V khai mua của người đàn ông dân tộc Mông không quen biết, không xác định được nhân thân, lai lịch nên chưa đủ cơ sở để xử lý.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Giàng A V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Giàng A V 02 năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (ngày 10/6/2022), được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 21/01/2022 đến ngày 01/3/2022.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Tuyên tịch thu tiêu hủy 0,2455 gam ma túy, loại Heroine mẫu vật còn lại sau giám định, không còn giá trị sử dụng, đã thu giữ trong quá trình điều tra.

(Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan Công an huyện Ea Súp và Chi cục Thi hành án dân sự huyện E ngày 28 tháng 6 năm 2022).

Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc Bị cáo Giàng A V phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 (mười lăm ngày) kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

140
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 44/2022/HS-ST

Số hiệu:44/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ea Súp - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về