Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 44/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CAO BẰNG – TỈNH CAO BẰNG

BẢN ÁN 44/2022/HS-ST NGÀY 16/05/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Nhà văn hóa tổ 04, phường Duyệt Trung, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng tiến hành xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 27/2022/HSST ngày 08 tháng 4 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 73/2022/QĐXXST- HS ngày 28/4/2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nông Văn L; Tên gọi khác: không có; Giới tính: Nam; Sinh ngày 19/02/1983 tại: huyện H, tỉnh Cao Bằng; Hộ khẩu thường trú và chỗ ở: xóm Bằng Hà, thị trấn Nước Hai, huyện H, tỉnh Cao Bằng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Tày; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Chức vụ trước khi phạm tội (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không; Trình độ học vấn: 12/12 phổ thông; Con ông: Nông Văn C - sinh năm 1952; Con bà: Đinh Thị H - sinh năm 1957 (cùng trú tại: xóm Bằng Hà, thị trấn Nước Hai, huyện H, tỉnh Cao Bằng); Anh, chị, em ruột: gia đình có 04 anh em, bị cáo là con thứ ba trong gia đình; Vợ: Bế Thị K - sinh năm 1984; Con: 01 con sinh năm 2010, cùng trú tại: xóm Bằng Hà, thị trấn Nước Hai, huyện H, tỉnh Cao Bằng; Tiền sự: Không;

Tiền án: có 02 tiền án:

- Ngày 05/3/2013 bị Tòa án nhân dân huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng xử phạt 08 năm 6 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Ngày 12/3/2013 bị Tòa án nhân dân huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng xử phạt 36 tháng tù về tội “Trốn khỏi nơi giam, giữ”.

Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam, tạm giữ tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng từ ngày 24/12/2022 đến nay; Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do bản thân nghiện ma túy nên khoảng 10 giờ 00 phút ngày 24/12/2021 Nông Văn L (sinh năm 1983; trú tại thị trấn Nước Hai, huyện H, tỉnh Cao Bằng) đi xe khách từ thị trấn Nước Hai, huyện H, tỉnh Cao Bằng đến Bến xe khách mới thuộc địa phận phường Đ, thành phố Cao Bằng để tìm mua ma túy về sử dụng. Tại đây L gặp và hỏi mua 800.000đ (tám trăm nghìn đồng) Heroine với 01 người đàn ông tên là H (không rõ tuổi, địa chỉ). H đồng ý. L đưa tiền, H cầm tiền rồi đi khoảng 05 phút sau quay lại đưa cho L 01 (một) gói giấy màu trắng có nhiều chữ viết, bên trong có chứa Heroine. Sau đó L đi bộ đến khu vực tổ 01, phường N, thành phố Cao Bằng thì bị Công an phường Ngọc Xuân, thành phố Cao Bằng bắt quả tang, thu giữ vật chứng gồm:

- 01 (một) gói giấy màu trắng có chữ, bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục lẫn bột (L khai nhận là Heroine) có khối lượng 0,29g (không phẩy hai mươi chín gam) trong lòng bàn tay trái của L.

- 01 (một) điên thoại di động có chữ VIVO, màu vàng, số Imei1: 869733037083298, Imei2: 869733037083280.

Ngày 27/12/2021, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng ra Quyết định trưng cầu giám định số 05 đối với vật chứng của vụ án. Tại Kết luận giám định số 15/GĐMT ngày 04/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Cao Bằng kết luận: Mẫu chất bột màu trắng bên trong phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, loại: Heroine.

Đối với vật chứng của vụ án, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng đã chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng theo quy định của pháp luật.

Hành vi của Nông Văn L đã bị cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng lập hồ sơ đề nghị truy tố về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại bản Cáo trạng số 30/CT-VKSTP ngày 07/4/2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng đã truy tố bị cáo Nông Văn L về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Bị cáo thừa nhận do nghiện ma túy nên ngày 24/12/2021 bị cáo đã mua 800.000 đồng ma túy với một người đàn ông tên H tại khu vực bến xe khách với mục đích sử dụng cho bản thân. Bị cáo nhất trí với khối lượng ma túy bị thu giữ và nội dung bản Kết luận giám định số 15/GĐMT ngày 04/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Cao Bằng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), đề nghị tuyên bố bị cáo Nông Văn L phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Đề nghị xử phạt bị cáo từ 18 tháng tù đến 21 tháng tù. Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong mặt trước ghi tang vật cân vụ Nông Văn L; 01 (một) điện thoại di động có chữ Vivo, điện thoại cũ đã qua sử dụng.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm để sung vào công quỹ nhà nước và được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Tại phần tranh luận, bị cáo không có ý kiến tranh luận với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng; khi nói lời sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về tính hợp pháp của những chứng cứ, tài liệu do cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, Kiểm sát viên thu thập và hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về các tài liệu, chứng cứ cũng như hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng như đã nêu trên. Do đó, các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập và hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Tại phiên tòa bị cáo Nông Văn L đã khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Kết luận giám định và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ căn cứ kết luận: khoảng 11 giờ 00 phút ngày 24/12/2021, tại tổ 01, phường N, thành phố Cao Bằng, Nông Văn L có hành vi tang trữ trái phép 0,29g (không phẩy hai mươi chín gam) Heroine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân đã bị Công an phường Ngọc Xuân, thành phố Cao Bằng bắt quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng.

Hành vi của bị cáo xâm phạm đến chính sách độc quyền của nhà nước về việc quản lý các chất ma túy. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được tác hại của chất ma túy, biết rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Do đó, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[3] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo là người có nhân thân rất xấu, đã từng bị giáo dục, cải tạo nhiều lần nhưng không lấy đó làm bài học cho mình mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án, bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, bố đẻ bị cáo là người có công với cách mạng nên bị cáo được hưởng 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có 02 tiền án chưa được xóa án tích mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội nên phải chịu 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Tái phạm” theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[4] Về hình phạt:

Hội đồng xét xử xét thấy mặc dù bị cáo đã bị kết án tội phạm về ma túy nhưng không lấy đó làm bài học cho mình, ngay sau khi chấp hành xong hình phạt bị cáo lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội về ma túy, tại thời điểm xét xử bị cáo có 02 tiền án chưa được xóa án tích. Do đó, cần áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội.

Ngoài hình phạt chính, bị cáo còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền. Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, thu nhập thấp nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng, xử lý vật chứng:

Đối với số ma túy bị thu giữ là vật cấm lưu hành, cần tịch thu tiêu hủy; Chiếc điện thoại di động có chữ Vivo của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội nhưng đã cũ hỏng, bị cáo không yêu cầu trả lại nên cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Về các vấn đề khác:

Về nguồn gốc số Heroine bị thu giữ, L khai mua với một người đàn ông tên H tại khu vực bến xe khách mới thành phố Cao Bằng. Do không biết rõ địa chỉ cụ thể và việc trao đổi không ai biết nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng không có đủ căn cứ để xác minh, xử lý theo quy định của pháp luật.

[7] Các ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng tại phiên tòa là đúng pháp luật, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[8] Về án phí và quyền kháng cáo: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Nông Văn L.

Tuyên bố: bị cáo Nông Văn L phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Xử phạt: Bị cáo Nông Văn L 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành án phạt tù được tính từ ngày 24/12/2021.

2. Về xử lý vật chứng: áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Tịch thu tiêu hủy:

- 01 (một) phong bì niêm phong mặt trước ghi tang vật cân vụ Nông Văn L sinh năm 1983 (HKTT: Bằng Hà, thị trấn Nước Hai, huyện H, tỉnh Cao Bằng) có hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 24/12/2021. Mặt sau có chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong. Kèm kết luận giám định ma túy số 15/GĐMT ngày 04/01/2022 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Chi nhánh tỉnh Cao Bằng.

- 01 (một) điện thoại di động có chữ Vivo, màu vàng (màn hình cảm ứng), có số IMEI1: 869733037083298, số IMEI2: 869733037083280, màn hình điện thoại bị vỡ nát, góc trên bên phải của màn hình điện thoại bị mất một mảng, điện thoại cũ đã qua sử dụng thu giữ của Nông Văn L.

Xác nhận vật chứng đã được chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cao Bằng theo biên bản bàn giao vật chứng số 60 ngày 08/4/2022.

3. Về án phí: áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án:

Bị cáo Nông Văn L phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung vào công quỹ Nhà nước.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

111
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 44/2022/HS-ST

Số hiệu:44/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cao Bằng - Cao Bằng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về