Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 44/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 44/2022/HS-ST NGÀY 15/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 15 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 28/2022/HSST ngày 17 tháng 3 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/2022/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 3 năm 2022 và Thông báo thay đổi thời gian mở phiên tòa số 17/TB-TA ngày 04 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo: Bùi Gia L, sinh ngày 01/12/2000 tại T. Nơi cư trú: Thôn G, xã A, huyện Q, tỉnh T. Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 09/12; quốc tịch: Việt Nam; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Bùi Gia N và bà Nguyễn Thị N1 (đã chết); vợ, con chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 21/12/2021 đến ngày 24/12/2021 chuyển tạm giam đến nay.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Bùi Thọ C, sinh năm 1996;

nơi cư trú: Thôn X, xã Q1, huyện Q, tỉnh T.

* Người chứng kiến:

- Anh Trần Văn Q2, sinh năm 1982; nơi cư trú: Tổ 02, phường K, thành phố T, tỉnh T.

- Anh Nguyễn Huy T1, sinh năm 1986; nơi cư trú: Thôn L1, xã Q3, huyện Q, tỉnh T.

(Tại phiên tòa có mặt bị cáo, vắng mặt anh C, anh Q2, anh T1).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ ngày 21/12/2021, Bùi Gia L điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda màu đen, biển số 30H6-5422 từ nhà đến khu vực C1, phường Q4, thành phố T với mục đích mua ma túy để sử dụng. Tại đây L gặp và mua của một nam giới khoảng 35 tuổi không biết tên, địa chỉ 1.500.000 đồng được 01 túi nilon đựng ma túy. Khoảng 22 giờ cùng ngày, L đi đến khu vực đường số 14, tổ 3, phường Trần Hưng Đạo, thành phố T thì bị tổ công tác Công an tỉnh Thái Bình phát hiện, yêu cầu kiểm tra. Trước sự chứng kiến của anh Trần Văn Q2 và anh Nguyễn Huy T1, tổ công tác kiểm tra người L phát hiện, thu giữ 01 túi nilon trong suốt, mép cài viền màu đỏ, bên trong chứa các viên nén màu xám, L khai đây là ma túy “kẹo” mua về để sử dụng, quản lý của L 01 điện thoại di động Iphone, vỏ màu trắng, đã cũ. Kiểm tra xe mô tô biển số 30H6-5422 và khám xét khẩn cấp tại chỗ ở của Bùi Gia L không phát hiện, thu giữ gì.

Bản kết luận giám định số 462/KLGĐMT-PC09 ngày 23/12/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình, kết luận: Mẫu vật gửi giám định là ma túy, loại MDMA, có khối lượng 4,3798 gam.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi của mình như bản cáo trạng đã nêu. Bản cáo trạng số 45/CT-VKSTPTB ngày 16/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo về tội danh và đề nghị Hội đồng xét xử:

* Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 50; Điều 38 Bộ luật Hình sự, đề nghị: Xử phạt bị cáo mức án từ 04 năm đến 04 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 21/12/2021. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy MDMA còn lại sau giám định. Trả lại bị cáo chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone, vỏ màu trắng, đã cũ nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án. Trả lại anh Bùi Thọ C chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda màu đen, biển số 30H6-5422.

Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định. Bị cáo không bào chữa và không có ý kiến tranh luận.

Bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố vụ án được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật về thẩm quyền, trình tự, thủ tục nên các hành vi, quyết định tố tụng trong vụ án này là hợp pháp.

[2] Về căn cứ kết tội đối với bị cáo: Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được chứng minh bằng: Biên bản bắt người phạm tội quả tang. Biên bản niêm phong vật chứng.

Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ. Kết luận giám định số 462/KLGĐMT- PC09 ngày 23/12/2021. Biên bản ghi lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến. Các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 22 giờ ngày 21/12/2021, tại khu vực đường số 14, tổ 3, phường Trần Hưng Đạo, thành phố T, tỉnh T, Bùi Gia L có hành vi tàng trữ trái phép trên người 4,3798 gam ma túy, loại MDMA mục đích để sử dụng cho bản thân.

Như vậy hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

...

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

...

[3] Về tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của nhà nước, gây hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội.

[4] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo là người có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự, bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năm hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt: Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cần thiết phải xử phạt mức hình phạt nghiêm minh với hành vi phạm tội của bị cáo, cần phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo giáo dục bị cáo và đấu tranh phòng ngừa tội phạm.

[6] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình là phù hợp với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử cần xem xét khi quyết định hình phạt.

[7] Về vật chứng của vụ án:

- Số ma túy MDMA còn lại sau giám định là 3,7573 gram thu giữ của bị cáo, đây là vật thuộc loại nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

- Chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone vỏ màu trắng, đã cũ không liên quan đến hành vi phạm tội, cần trả lại cho bị cáo.

- Xác định chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, màu đen, biển số 30H6-5422 là tài sản của anh Bùi Thọ C. Năm 2014, anh C mua chiếc xe với giá 10 triệu đồng của anh Hà Hồng H, sinh năm 1968; trú tại hẻm 94/89/5, tổ 13, phố T2, phường T2, quận L2, thành phố H1, có giấy mua bán kèm giấy đăng ký xe, anh C chưa làm làm thủ tục sang tên. Anh C cho L mượn chiếc xe để L đi khai trương cửa hàng của bạn, không biết việc L sử dụng chiếc xe đi mua ma túy. Trả lại anh C chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, màu đen, biển số 30H6-5422.

[8] Về nguồn gốc số ma túy: Bị cáo khai mua của người nam giới khoảng 35 tuổi không biết tên, địa chỉ, tại khu vực C1, phường Q4, thành phố T nên cơ quan Điều tra không có căn cứ để xử lý.

[9] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 50; Điều 38; Điều 47 Bộ luật Hình sự;

- Căn cứ Điều 106, Điều 135, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự;

- Căn cứ Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Bùi Gia L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Bùi Gia L 04 (bốn) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 21/12/2021.

3. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy số MDMA còn lại sau giám định là 3,7573 gram trong phong bì niêm phong số 462/KLGĐMT- PC09 ngày 23/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình.

- Trả lại bị cáo chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone màu trắng đã cũ.

- Trả cho anh Bùi Thọ C, sinh năm 1996; nơi cư trú: Thôn X, xã Q1, huyện Q, tỉnh T chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, màu đen, biển số 30H6-5422.

(Vật chứng Công an thành phố Thái Bình đã chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Bình ngày 17/3/2022).

4. Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 15/4/2022). Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận dược Bản án hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 44/2022/HS-ST

Số hiệu:44/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về