Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 44/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỮU LŨNG, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 44/2021/HS-ST NGÀY 17/08/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 46/2021/TLST-HS ngày 05 tháng 8 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 47/2021/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 8 năm 2021, đối với bị cáo:

Bùi Văn L, tên gọi khác: Không, sinh ngày 10 tháng 7 năm 1988 tại huyện L, tỉnh Hòa Bình; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Xóm T, xã Y, huyện L, tỉnh Hòa Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Mường; giới tính: Nam; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn N (đã chết) và bà Bùi Thị C, sinh năm 1950; có vợ là Bùi Thị , sinh năm 1987 và 02 con, cả hai con đều sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật; bị cáo đang bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 07-7-2021 tại Nhà tạm giữ, Công an huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn đến nay; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bùi Văn L là người sử dụng trái phép chất ma túy Heroine, khoảng 9 giờ 00 phút, ngày 07-7-2021 do có nhu cầu sử dụng ma túy, Bùi Văn L đã bắt xe khách từ xã Đ, huyện H, tỉnh Lạng Sơn đến Ngã tư thị trấn K, huyện L, tỉnh Bắc Giang tìm mua ma túy về sử dụng. Đến nơi Bùi Văn L gặp và hỏi mua ma túy với một người đàn ông không biết tên, tuổi, địa chỉ số tiền 300.000 đồng được 01 gói ma túy đựng trong 01 túi nilon màu trắng, sau khi mua được ma túy Bùi Văn L đi xe ôm về. Đến khoảng 10 giờ 30 phút cùng ngày, khi về đến chốt kiểm dịch Covid-19 ở thôn B, xã M, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Bùi Văn L xuống xe đi bộ qua chốt. Tổ công tác đội phòng chống tội phạm về ma túy Công an huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn phối hợp với Công an xã M, huyện H, tỉnh Lạng Sơn đang làm nhiệm vụ tại đó yêu cầu Bùi Văn L dừng lại kiểm tra, do lo sợ bị bắt giữ Bùi Văn L đã lấy gói ma túy trong túi quần ra vứt xuống đất thì bị tổ công tác phát hiện bắt quả tang, tạm giữ người và tang vật thu giữ gồm: 01 túi nilon màu trắng, kích thước 02cm x 1,8cm, miệng túi kẹp dính bên trong chứa chất cục bột màu trắng; 100.000 đồng tiền mặt và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Itel màu đen đã qua sử dụng.

Tại Kết luận giám định số: 264/KL-PC09, ngày 09-7-2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn, kết luận: Chất cục bột màu trắng đựng trong 01 túi ni lông màu trắng, kích thước 2cm x 1,8cm thu giữ của Bùi Văn L gửi giám định là chất ma túy Heroine, có khối lượng 0,294 gam (đã trừ bì). Tại Kết luận giám định số: 337/KLGĐ-PC09 ngày 17-7-2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn, kết luận: 100.000 đồng thu giữ của Bùi Văn L là tiền thật.

Tại Bản cáo trạng số: 51/CT-VKS, ngày 04 tháng 8 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn truy tố bị cáo Bùi Văn L về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên toà bị cáo Bùi Văn L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung đã nêu ở trên.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn tại phiên tòa vẫn giữ nguyên Cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo Bùi Văn L về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; 50 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Bùi Văn L từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù đến 02 (hai) năm 06(sáu) tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo do bị cáo nghiện ma túy, không có thu nhập ổn định và không có tài sản riêng. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a,c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Đề nghị tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì thư dán kín bên trong đựng mẫu vật chất ma túy Heroine hoàn trả sau giám định; trả lại cho bị cáo số tiền 100.000 đồng và 01 điện thoại di động đã cũ do không liên quan đến hành vi phạm tội. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng bị cáo nhận thấy lỗi lầm của bản thân, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm cải tạo trở về đoàn tụ với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Bùi Văn L tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó, có đủ căn cứ xác định: Bùi Văn L là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy, ngày 07-7-2021 Bùi Văn L bắt xe đi đến thị trấn K, huyện L, tỉnh Bắc Giang mua ma túy. Đến 10 giờ 30 phút cùng ngày, khi đi đến chốt kiểm dịch Covid-19 ở thôn B, xã M, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Tổ công tác Đội phòng chống tội phạm về ma túy Công an huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn phối hợp với Công an xã M, huyện H, tỉnh Lạng Sơn đang làm nhiệm vụ thì bắt quả tang Bùi Văn L có hành vi Tàng trữ trái phép 0,294 gam chất ma túy Heroine. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố đối với bị cáo Bùi Văn L về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo thực hiện thấy rằng: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân. Ma túy là chất gây nghiện cao, có tác hại nghiêm trọng ảnh hưởng đến sức khỏe con người, gây thiệt hại về kinh tế. Ma túy còn là nguyên nhân làm phát sinh tội phạm và các tệ nạn trong xã hội. Bị cáo là người có đủ độ tuổi, năng lực hành vi, năng lực trách nhiệm hình sự và nhận thức được hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, biết rõ tác hại của ma túy và quy định của Nhà nước về quản lý, sử dụng chất ma túy nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Do đó, hành vi phạm tội của bị cáo cần được xử lý nghiêm trước pháp luật.

[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo tuy chưa có tiền án, tiền sự nhưng là người nghiện chất ma túy có nhân thân không tốt. Tại phiên toà cũng như trong quá trình điều tra bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo thuộc dân tộc thiểu số, cư trú tại xã có điều kiện Kinh tế - Xã hội đặc biệt khó khăn nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Để giáo dục bị cáo trở thành người có ích, cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có đủ thời gian để bị cáo cải tạo trở thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội, qua đó làm gương cho những người khác có ý định phạm tội tương tự.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định người phạm tội còn có thể bị phạt tiền là hình phạt bổ sung. Tuy nhiên, các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo tại phiên tòa thể hiện: Bị cáo nghiện ma túy, không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về vật chứng: Đối với 01 (một) phong bì thư dán kín bên trong đựng mẫu vật chất ma túy Herone hoàn trả sau giám định, bên ngoài có chữ ký cùng tên của các thành phần tham gia niêm phong, của giám định viên và cán bộ giám định và hình dấu tròn đỏ của Công an xã Minh Sơn, của Phòng kỹ thật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cần tịch thu tiêu hủy. Đối với số tiền 100.000 đồng tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam và 01 điện thoại di động Itel màu đen đã qua sử dụng, số IMEI (5 số cuối 15822, lắp sim số 0972771340) thu giữ của Bùi Văn L, xác định không dùng vào việc phạm tội cần tuyên trả cho bị cáo theo quy định tại khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 và khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[8] Đối với người bán ma túy cho bị cáo Bùi Văn L do không biết họ, tên, tuổi, địa chỉ cụ thể nên cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn không có cơ sở xác minh làm rõ. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[9] Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo và các nội dung khác của vụ án. Xét thấy đề nghị này là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, được Hội đồng xét xử chấp nhận. Đại diện Viện kiểm sát không đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo thuộc dân tộc thiểu số, cư trú tại xã có điều kiện Kinh tế - Xã hội đặc biệt khó khăn theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 là chưa phù hợp với quy định của pháp luật.

[10] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo bị kết án nên phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; điểm c khoản 1 Điều 47; Điều 50 Bộ luật Hình sự năm 2015;

Căn cứ điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136; khoản 1 Điều 331; khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị Bùi Văn L phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Bùi Văn L 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 07-7-2021.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng:

3.1. Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì thư dán kín bên trong đựng mẫu vật chất ma túy Herone hoàn trả sau giám định, bên ngoài có chữ ký cùng tên của các thành phần tham gia niêm phong, của giám định viên và cán bộ giám định và hình dấu tròn đỏ của Công an xã Minh Sơn, của Phòng kỹ thật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn.

3.2. Tuyên trả lại cho bị cáo Bùi Văn L số tiền 100.000 đồng (tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam); 01 điện thoại di động Itel màu đen đã qua sử dụng, số IMEI (5 số cuối 15822, lắp sim số 0972771340).

(Vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 13 tháng 8 năm 2021).

4. Về án phí: Bị cáo Bùi Văn L phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

141
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 44/2021/HS-ST

Số hiệu:44/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hữu Lũng - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về