Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 44/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 44/2020/HS-ST NGÀY 29/04/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 04 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 29/2020/TLST-HS ngày 27/02/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/2020/QĐXXST-HS ngày 03/03/2020 đối với bị cáo:

Phạm Minh T, sinh năm 1978 tại Hà Nam; nơi ĐKHKTT, chỗ ở: Thôn M, xã P, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Minh L và bà Lại Thị T; có vợ là Phạm Thị H, sinh năm 1979 và 03 con, lớn sinh năm 1998, nhỏ sinh năm 2004; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân:

Ngày 15/05/2010 Công an thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xử phạt vi phạm hành chính hình thức phạt tiền 350.000 đồng về hành vi: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; bị bắt, tạm giữ ngày 29/11/2019, tạm giam từ ngày 05/12/2019 đến nay; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Anh Phạm Văn K, sinh năm 1994; địa chỉ: Xóm 8, xã Liêm C, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam; có mặt.

2. Anh Bùi Phúc L, sinh năm 1975; địa chỉ: Thôn B, xã T, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

- Người làm chứng: Ông Tạ Văn Đ, sinh năm 1965; địa chỉ: Tổ X, phường Lê Hồng P, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 29/11/2019, Phạm Minh T điều khiển xe máy BKS: 90F9-xxxx từ nhà đến Trung tâm phòng chống bệnh tật tỉnh Hà Nam để uống thuốc cai nghiện Methadone. Sau khi uống thuốc xong, T điều khiển xe mô tô đi đến tổ 3, phường Lê Hồng Phong, thành phố Phủ Lý thì gặp bạn nghiện mới quen tên là Ba, khoảng 25 tuổi (T không biết địa chỉ cụ thể), Ba nói với T: “Hôm trước em nợ anh một trăm, hôm nay em có tý hàng mời anh”, hiểu ý Ba rủ sử dụng ma túy, T nói:“Ừ cũng được”. Ba đưa cho T 01 vỏ bao thuốc lá Vinataba màu vàng nói: “Anh cầm cẩn thận, hàng ở trong đấy”. Biết đó là ma túy, T liền cầm lấy vỏ bao thuốc lá cất vào túi áo khoác bên trái đang mặc còn Ba bỏ đi. Trong lúc T định đi tìm nơi sử dụng ma túy thì bị tổ công tác của Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Phủ Lý đang làm nhiệm vụ phát hiện thấy nghi vấn nên yêu cầu kiểm tra hành chính. Tại chỗ, T tự giác lấy giao nộp cho lực lượng Công an 01 vỏ bao thuốc lá Vinataba màu vàng, bên trong có 01 gói giấy bạc màu vàng chứa chất bột màu trắng dạng cục và khai nhận đó là ma túy, cất giấu mục đích để sử dụng.

Vật chứng, tài sản thu giữ của Phạm Minh T gồm: 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01; 01 vỏ bao thuốc lá Vinataba màu vàng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia và 01 xe máy nhãn hiệu SADOKA, biển kiểm soát 90F9-xxxx.

Tại bản Kết luận giám định số 207/PC09-MT ngày 02/12/2019, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận: “Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,148 gam, loại Heroine”.

Bản cáo trạng số 35/CT-VKS-PL ngày 26/02/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam truy tố Phạm Minh T về tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý thực hành quyền công tố giữ nguyên quan điểm không thay đổi, bổ sung về nội dung đã truy tố đối với bị cáo Phạm Minh T, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 và Điều 50 Bộ luật hình sự:

- Xử phạt Phạm Minh T từ 18 tháng đến 24 tháng tù.

- Xử lý vật chứng của vụ án theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Minh T đã khai nhận toàn bộ hành vi như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã truy tố. Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được Cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Minh T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã nêu. Lời khai của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa, phù hợp với các chứng cứ của vụ án như biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng, kết luận giám định về chất ma túy, lý lịch tư pháp của bị cáo, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ của vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 09 giờ 45 phút ngày 29/11/2019, tại khu vực tổ 3, phường Lê Hồng Phong, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, Phạm Minh T bị lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam bắt giữ quả tang khi đang cất giấu trái phép 0,148 gam chất ma túy, loại Heroine mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bản thân nghiện ma túy, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (đã hết thời hạn được coi như chưa bị xử lý vi phạm hành chính).

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo sẽ được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt:

Hình phạt chính: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, mức độ nghiêm trọng, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy và các chất gây nghiện trực tiếp là các hoạt động cất giữ, tàng trữ chất ma túy, gây mất trật tự, an toàn cho xã hội, làm nảy sinh tệ nạn ma túy là mầm mống, nguyên nhân phát sinh các tội phạm khác. Vì vậy, cần có mức án thật nghiêm minh, tương xứng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm bị cáo đã thực hiện và nhân thân xấu của bị cáo mới có tác dụng răn đe, giáo dục đối với bị cáo đồng thời nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm.

Hình phạt bổ sung: Do bị cáo là người lao động tự do, không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định và tài sản riêng nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung (như phạt tiền, tịch thu tài sản…) đối với bị cáo.

[6] Đối với người nam thanh niên tên Ba theo bị cáo khai là người đã đưa ma túy cho bị cáo để cất giấu, sử dụng. Cơ quan điều tra đã tiến hành các biện pháp nghiệp vụ để điều tra, xác minh nhưng không xác định được đặc điểm nhân thân và địa chỉ của người này nên chưa có cơ sở để xem xét, xử lý là có căn cứ.

[7] Về vật chứng và xử lý vật chứng đã thu giữ:

- Đối với chiếc điện thoại di động Nokia thu giữ của bị cáo, quá trình điều tra đã xác định đó là tài sản hợp pháp của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội trong vụ án nên sẽ trả lại cho bị cáo.

- Đối với chiếc xe máy biển kiểm soát 90F9-xxxx, quá trình điều tra đã xác định đó là tài sản đứng tên đăng ký, sử dụng của anh Bùi Phúc L. Do anh L đã bán chiếc xe này từ năm 2008 cho người khác và anh Phạm Văn K (con rể của bị cáo) mua lại với đầy đủ giấy tờ nên là tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của anh K. Khi cho bị cáo mượn xe để đi, anh K đã không biết bị cáo sử dụng chiếc xe làm phương tiện để phạm tội nên nay sẽ trả lại tài sản này cho anh K.

- Đối với toàn bộ số Heroine hoàn trả sau giám định cùng bao gói và 01 vỏ bao thuốc lá Vinataba màu vàng là vật cấm tàng trữ và không có giá trị sử dụng sẽ tịch thu, tiêu hủy.

[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án thực hiện quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 và Điều 50 Bộ luật hình sự:

Tuyên bố bị cáo Phạm Minh T phạm tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo 24 (hai bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 29/11/2019.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Trả lại cho anh Phạm Văn K 01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu SADOKA, màu sơn đỏ, số máy: VJMSA152FMHA-001931, số khung mờ không xác định, biển kiểm soát 90F9-xxxx.

- Trả lại cho bị cáo Phạm Minh T 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu đen, loại có bàn phím bấm, số sê ri: 355351041256742.

- Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) phong bì đã niêm phong mặt trước ghi:“Mẫu vật hoàn trả QT01”, số 207/PC09-MT có chữ ký và dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam và 01 (một) vỏ bao thuốc lá Vinataba màu vàng.

Tình trạng, đặc điểm vật chứng theo Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý ngày 27/02/2020.

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Danh mục án phí, lệ phí Tòa án theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc bị cáo Phạm Minh T nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

18
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 44/2020/HS-ST

Số hiệu:44/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về