TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LÝ NHÂN, TỈNH HÀ NAM
BẢN ÁN 43/2022/HS-ST NGÀY 14/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ
Ngày 14 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:
41/2022/TLST-HS ngày 11 tháng 8 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 43/2022/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 8 năm 2022, đối với bị cáo:
Phạm Văn Đ, sinh năm 1980 tại tỉnh Hà Nam; nơi cư trú: Tổ dân phố T, thị trấn V, huyện L, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá:
2/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phạm Văn A và bà Nguyễn Thị H (đều đã chết); vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân:
- Bản án số 18/2001/HSST ngày 30/10/2001, Toà án nhân dân huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam xử phạt 18 (Mười tám) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
- Quyết định số 568/QĐ-UB ngày 30/5/2003, UBND tỉnh Hà Nam áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục với thời hạn 24 (Hai mươi bốn) tháng.
- Bản án số 40/2005/HSST ngày 25/11/2005, Toà án nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam xử phạt 12 (Mười hai) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
- Bản án số 15/2009/HSST ngày 24/11/2008, Toà án nhân dân huyện EaH’Leo, tỉnh ĐăkLăk xử phạt 02 (Hai) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
- Quyết định số 209/QĐ-UBND ngày 22/02/2011, Chủ tịch UBND tỉnh Hà Nam áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục với thời hạn 24 (Hai mươi bốn) tháng.
- Quyết định số 48A/QĐ-XPVPHC ngày 17/6/2016, Công an thị trấn EaĐrăng, huyện EaH’Leo, tỉnh ĐăkLăk xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 (Một triệu năm trăm nghìn) đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”.
- Bản án số 118/2016/HSST ngày 18/11/2016, Toà án nhân dân huyện EaH’Leo, tỉnh ĐăkLăk xử phạt 01 (Một) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
- Bản án số 83/2018/HSST ngày 10/10/2018, Toà án nhân dân huyện EaH’Leo, tỉnh ĐăkLăk xử phạt 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
Bị tạm giữ từ ngày 17/5/2022, chuyển tạm giam từ ngày 26/5/2022 cho đến nay; có mặt.
- Người làm chứng: Ông Vũ Ngọc H, sinh năm 1965; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 14 giờ ngày 17/5/2022, Tổ công tác Công an thị trấn Vĩnh Trụ phối hợp với Công an xã Nhân Khang, huyện Lý Nhân làm nhiệm vụ tuần tra tại trục đường thuộc tổ dân phố Vĩnh Thịnh, thị trấn Vĩnh Trụ, huyện Lý Nhân thì phát hiện Phạm Văn Đ đang đi bộ trên đường, có biểu hiện nghi vấn nên lực lượng Công an kiểm tra hành chính thì phát hiện, thu giữ trong lòng bàn tay trái của Đ đang cầm 05 (Năm) gói nilon màu xanh, bên trong có các gói giấy bạc màu trắng, mở ra bên trong có chất bột màu trắng, dạng cục. Phạm Văn Đ khai đó là 05 gói ma tuý loại Heroine, mang đi để sử dụng.
Lực lượng Công an đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Phạm Văn Đ và niêm phong 05 gói nilon màu xanh nêu trên trong phong bì kí hiệu “QT01”; tạm giữ của Đ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Coolpad, vỏ màu cam và số tiền 1.190.000 đồng. Cùng ngày, cơ quan Công an huyện Lý Nhân tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Phạm Văn Đ tại tổ dân phố Vĩnh Tiến, thị trấn Vĩnh Trụ, huyện Lý Nhân, thu trên mặt bàn uống nước trong gian giữa nhà Đ 01 bật lửa màu đỏ, niêm phong trong phong bì kí hiệu “KX01” và 01 dao lam kí hiệu CROMA PR6MIUM đã qua sử dụng, niêm phong trong phong bì kí hiệu “KX02”.
Tại bản kết luận giám định số 223/KL-KTHS ngày 19/5/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hà Nam, kết luận: “Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma tuý, có khối lượng: 0,405 (Không phẩy bốn trăm linh năm) gam, loại: Heroine; 01 (Một) dao lam nhãn hiệu CROMA PR6MIUN trong phong bì ký hiệu KX02 gửi giám định có bám dính ma tuý, loại: Heroine”.
Tại bản cáo trạng số 41/CT-VKSLN ngày 10/8/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam truy tố Phạm Văn Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa:
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lý Nhân giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt Phạm Văn Đ từ 36 đến 42 tháng tù; đồng thời đề xuất hướng xử lý vật chứng, án phí vụ án.
- Bị cáo Phạm Văn Đ khai nhận hành vi phạm tội của mình, không tranh luận, bào chữa gì mà xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, khách quan.
[2] Về tội danh: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà là phù hợp với biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, phù hợp với vật chứng thu được, kết luận giám định về ma tuý và các tài liệu, chứng cứ khác lưu trong hồ sơ vụ án.
Như vậy, đủ cơ sở kết luận: Hồi 14 giờ ngày 17/5/2022, tại trục đường thuộc tổ dân phố Vĩnh Thịnh, thị trấn Vĩnh Trụ, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam, Phạm Văn Đ đang có hành vi cất giấu trái phép 0,405 (Không phẩy bốn trăm linh năm) gam ma tuý, loại Heroine, mục đích để sử dụng, thì bị lực lượng Công an thị trấn Vĩnh Trụ phối hợp với Công an xã Nhân Khang, huyện Lý Nhân phát hiện, bắt quả tang.
Hành vi nêu trên của Phạm Văn Đ đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam đã truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng tội và đúng pháp luật.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương, tệ nạn ma tuý để lại nhiều hậu quả nặng nề cho gia đình có người nghiện và xã hội. Bị cáo đã nhiều lần thực hiện tội phạm, bị Toà án xử phạt bằng hình phạt tù, bị các cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp hành chính nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện bản thân, trở thành người có ích cho xã hội mà tiếp tục thực hiện tội phạm, thể hiện sự coi thường pháp luật. Vì vậy, cần phải xử phạt nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội và phòng ngừa tội phạm chung.
Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân rất xấu, nhiều lần bị xét xử về tội trộm cắp tài sản, bị áp dụng biện pháp hành chính. Đây cũng là tình tiết cần xem xét khi áp dụng mức hình phạt đối với bị cáo.
Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào trong vụ án.
Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[3] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo phạm tội không nhằm mục đích thu lợi nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
[4] Về xử lý vật chứng: Toàn bộ số ma tuý thu giữ, 01 bật lửa ga và 01 giao lam niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01, KX01 và KX02 đều là vật cấm tàng trữ và đồ vật là công cụ phạm tội không có giá trị sử dụng, nên tịch thu và tiêu huỷ.
Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Cool Pad màu cam và số tiền 1.190.000 đồng. Quá trình điều tra và tại phiên toà xác định là tài sản hợp pháp của bị cáo không liên quan đến tội phạm nên xem xét trả lại cho bị cáo, nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.
[5] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
[6] Về các vấn đề khác: Đối với đối tượng đã bán ma tuý cho bị cáo, có đặc điểm nhận dạng như Phạm Văn Đ khai. Do chỉ có duy nhất lời khai của bị cáo, ngoài ra không có thông tin gì khác nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lý Nhân không đủ căn cứ xác minh, làm rõ để xử lý.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về hình sự: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
Xử phạt: Bị cáo Phạm Văn Đ 42 (Bốn mươi hai) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 17/5/2022.
2. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Tịch thu và tiêu huỷ: 02 phong bì niêm phong số 223/KTHS, ghi “Mẫu vật hoàn trả QT01, KX02” và 01 phong bì niêm phong kí hiệu KX01 ghi “Vật chứng thu giữ của Phạm Văn Đ”.
- Trả lại Phạm Văn Đ: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Cool Pad đã cũ, niêm phong trong phong bì kí hiệu QT02 và số tiền 1.190.000 (Một triệu một trăm chín mươi nghìn) đồng, nhưng tiếp tục quản lý số tiền đã tuyên trả cho bị cáo để đảm bảo thi hành án dân sự.
(Tình trạng, đặc điểm vật chứng như biên bản giao, nhận vật chứng giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lý Nhân với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lý Nhân ngày 11/8/2022 và Uỷ nhiệm chi số 14 ngày 11/8/2022).
3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Phạm Văn Đ phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 43/2022/HS-ST
Số hiệu: | 43/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lý Nhân - Hà Nam |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về