Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 42/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ H, TỈNH N

BẢN ÁN 42/2020/HS-ST NGÀY 29/06/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 6 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã H, tỉnh N xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 44/2020/TLST-HS ngày 01 tháng 6 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 42/2020/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 6 năm 2020 đối với bị cáo:

Trần Ngọc H ( tên gọi khác là Hải) ; sinh ngày 08/10/ 1994, tại N; nơi ĐKNKTT và nơi cư trú hiện nay: Số 12, tổ 15, khu phố 3, thị trấn C, huyện C, tỉnh N; nghề nghiệp: không có; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Ngọc Mẫn (đã chết) và bà Lê Thị kim Phương; Vợ con: chưa có.

- Tiền sự: không có.

- Tiền án: Tại bản án số 32/2014/2014/HSST, ngày 11/4/2014, Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh N áp dụng điểm a, khoản 3, Điều 136; điểm b, p khoản 1, Điều 46 , Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt 08 năm 03 tháng tù, về tội “ Cướp giật tài sản”.

Bị tạm giữ ngày 06/3/2020, tạm giam ngày 12/3/2020 đến nay Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1 Trần Ngọc H (tự là Hải) là đối tượng nghiện ma túy. Khoảng 10 giờ ngày 06/3/2020 H đi cùng người bạn tên D (không rõ nhân thân, địa chỉ) đến quán cà phê “G” thuộc khu phố Long Mỹ, phường Long Thành Bắc, thị xã H, tỉnh N để uống nước. Khi đang uống nước, D nói với H đi mua ma túy về sử dụng thì H trả lời là “không có tiền”, D nói “để D mua còn tiền thì tính sau”. Sau đó, D bỏ đi khoảng 20 phút quay lại đưa cho H 01 (một) bịch ma túy để H cất giữ và kêu H ngồi chờ D đi có việc, lát sau quay lại. Khi D bỏ đi, H cất giấu bịch ma túy vào trong túi áo khoác bên phải đang mặc và nằm võng đợi. Khoảng 10 phút sau, lực lượng Công an thị xã H đến kiểm tra phát hiện bắt quả tang, thu giữ trong túi áo khoác của H 01(một) bịch nylon, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng, niêm phong ký hiệu M.

Tại Kết luận giám định số: 350 ngày 08/3/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N, kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng bên trong 01(một) bịch nylon được hàn kín (kí hiệu M) gửi đến giám định là chất ma túy, tên gọi Methamphetamine, khối lượng 0,6465 gam.

Đối với người tên D, hiện chưa xác định được, khi nào làm rõ xử lý sau.

Tại bản cáo trạng số: 45/CT-VKSND-HT ngày 30 tháng 5 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã H, tỉnh N đã truy tố bị cáo Trần Ngọc H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã H, tỉnh N trong phần tranh luận đã giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Trần Ngọc H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Trần Ngọc H mức án từ 02 năm đến 03 năm tù giam.

Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo H vì bị cáo không có tài sản riêng.

- Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Lời nói sau cùng: Bị cáo đã biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, xin Hội đồng xét xử cho bị cáo hưởng khoan hồng của pháp luật, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về đoàn tụ với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra Công an thị xã H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã H, Kiểm sát viên thu thập: Các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập đều được tiến hành đúng theo trình tự, thủ tục luật định. Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định, lời khai của người làm chứng, tang vật vụ án cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ xác định:

Lúc khoảng 10 giờ 10 phút ngày 06/3/2020, tại quán cà phê “G” thuộc khu phố Long Mỹ, phường Long Thành Bắc, thị xã H, tỉnh N. Trần Ngọc H (Hải) có hành vi tàng trữ trái phép 0,6465 gam chất ma túy loại Methamphetamine để sử dụng thì bị bắt quả tang. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thị xã H truy tố bị cáo H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình chính trị tại địa phương. Bị cáo vẫn biết ma túy là hiểm họa của con người, cộng đồng và xã hội, việc sử dụng chất ma túy là nguy hiểm s dẫn đến việc lây nhiễm HIV và là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác. Bị cáo ý thức được hành vi tàng trữ ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vì mục đích thỏa mãn nhu cầu sử dụng ma túy của bản thân đã dẫn bị cáo vào con đường phạm tội. Vì vậy, cần phải có một mức hình phạt nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm.

[4] Khi quyết định hình phạt có xem xét đến tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo như sau:

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo có 01 tiền án về tội “Cướp giật tài sản” đã chấp hành xong hình phạt nhưng chưa xóa án tích nên lần phạm tội này là tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Sau khi phạm tội, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về xử lý vật chứng: 01 (một) gói niêm phong ghi vụ số: 350/KL-KTHS, có chử ký của giám định viên Võ Quốc Thái, trợ lý Lê Nhựt Nam và dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N, là chất ma túy nên cần tịch thu tiêu hủy; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung DUOS màu trắng, số IMEII:

352700070206536, đã qua sử dụng, màn hình bị rạn nứt là tài sản bị cáo dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có tài sản riêng nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[7] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các l trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Ngọc H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Trần Ngọc H 02 (hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 06/3/2020.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) gói niêm phong ghi vụ số: 350/KL-KTHS, có chữ ký của giám định viên Võ Quốc Thái, trợ lý Lê Nhựt Nam và dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N. (Hiện cơ quan thi hành án dân sự thị xã H đang tạm giữ).

Tịch thu sung vào ngân sách Nhà Nước: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung DUOS màu trắng, số IMEII: 352700070206536, đã qua sử dụng, màn hình bị rạn nứt (Hiện cơ quan thi hành án dân sự thị xã H đang tạm giữ).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Trần Ngọc H phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

Án hình sự sơ thẩm xử công khai báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh N trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

35
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 42/2020/HS-ST

Số hiệu:42/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Chương - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về