Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 41/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LÝ NHÂN, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 41/2021/HS-ST NGÀY 30/07/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 30 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 38/2021/TLST-HS ngày 02 tháng 7 năm 2021 (Sau đây viết tắt là: 02/7/2021) theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 37/2021/QĐXXST-HS ngày 19/7/2021, đối với bị cáo:

Trƣơng Ngọc T, sinh năm 1986 tại tỉnh Hà Nam; nơi cư trú: Thôn C, xã B, huyện L, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Ngọc S và bà Nguyễn Thị T; vợ: Nguyễn Thị H (đã ly hôn); con: Có 02 con (Lớn sinh năm 2012, nhỏ sinh năm 2016); tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 13/4/2021 và chuyển tạm giam từ ngày 16/4/2021 đến nay; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Trương Thị H, sinh năm 1976;

nơi cư trú: Thôn Đ, xã Đ1, huyện L, tỉnh Hà Nam; có mặt.

- Người tham gia tố tụng khác:

+ Người làm chứng: Anh Nguyễn Thành C vắng mặt.

+ Người chứng kiến: Ông Nguyễn Hữu Q; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 16h 30’ ngày 13/4/2021, tại trục đường bê tông liên thôn thuộc thôn N, xã N1, huyện L, tỉnh Hà Nam, Công an huyện Lý Nhân phối hợp với Công an xã N1 đang làm nhiệm vụ thì phát hiện Trương Ngọc T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream, biển kiểm soát 29H9-6307 (Sau đây viết tắt là: BKS 29H9- 6307) không đội mũ bảo hiểm nên đã yêu cầu dừng xe kiểm tra hành chính. Quá trình kiểm tra phát hiện, thu giữ trong túi quần dài phía trước bên trái của Trương Ngọc T đang mặc có một đoạn ống nhựa màu hồng, sọc trắng, hàn kín hai đầu, kích thước khoảng 2,5 cm, mở ra bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng (được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01), T khai là ma túy mua về để sử dụng cá nhân. Ngoài ra, còn thu giữ của Trương Ngọc T 01 điện thoại di động đen trắng, nhãn hiệu Nokia (được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT02) và 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream, BKS 29H9-6307.

* Khám xét khẩn cấp nơi ở của Trương Ngọc T: Không thu giữ được tài sản, đồ vật gì liên quan đến vụ án.

* Tại Kết luận giám định số: 71/PC09-MT ngày 15/4/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận: “Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,150g (Không phảy một trăm năm mươi gam) loại: Heroine”.

* Trương Ngọc T khai về nguồn gốc số Heroine thu giữ: Khoảng 16 giờ ngày 13/4/2021, T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream, BKS 29H9-6307 đến khu vực chợ thuộc thôn T, xã N, huyện L, tỉnh Hà Nam mua của một người đàn ông (không biết tên, tuổi, địa chỉ ở đâu) 01 gói ma túy với giá 200.000 đồng. Sau đó, điều khiển xe mô tô đi tìm nơi để sử dụng thì bị Công an bắt quả tang.

* Quá trình điều tra bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi đã thực hiện.

Tại bản cáo trạng số 41/CT-VKSLN ngày 30/6/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam đã truy tố Trương Ngọc T về tội“Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

* Tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lý Nhân luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo như bản cáo trạng đã nêu. Sau khi phân tích, đánh giá toàn diện vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử (Sau đây viết tắt là: HĐXX): Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự: Xử phạt Trương Ngọc T từ 18 đến 24 tháng tù; Không áp dụng hình phạt bổ sung, đồng thời đề xuất hướng xử lý vật chứng hiện đang thu giữ.

- Bị cáo Trương Ngọc T đã thừa nhận và khai báo toàn bộ diễn biến hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy vào chiều ngày 13/4/2021 đúng như nội dung bản cáo trạng đã mô tả và không có ý kiến bào chữa, tranh luận gì. Bị cáo không có ý kiến gì đối với các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, kết luận giám định và lời khai của người tham gia tố tụng khác, bản thân đã nhận thức rõ lỗi lầm, đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.

- Chị Trương Thị H trình bầy: Chị là chị ruột của bị cáo Trương Ngọc T, chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream, BKS 29H9-6307 là tài sản cá nhân của chị. Trước đó, chị có cho bị cáo mượn xe để làm phương tiện đi lại, chị hoàn toàn không biết bị cáo sử dụng xe để thực hiện tội phạm, chị đề nghị HĐXX xem xét cho chị được nhận lại chiếc xe mô tô trên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tội danh: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với diễn biến nội dung vụ án được ghi nhận tại biên bản bắt người phạm tội quả tang, các vật chứng thu giữ tại hiện trường, kết luận giám định về ma túy, cũng như chính lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, ngoài ra còn phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác cùng các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập theo trình tự luật định, phản ánh đúng sự thật khách quan của vụ án.

Như vậy, có đủ cơ sở pháp lý kết luận: Hồi 16h30’ ngày 13/4/2021, tại trục đường bê tông liên thôn thuộc thôn N, xã N1, huyện L, tỉnh Hà Nam, Trương Ngọc T đang có hành vi cất giấu trái phép 0,150 (Không phẩy một trăm năm mươi) gam chất ma túy, loại Heroine để sử dụng thì bị lực lượng Công an huyện Lý Nhân bắt quả tang.

Hành vi nêu trên của Trương Ngọc T đã phạm vào tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự (Sau đây viết tắt là: BLHS).

Quan điểm kết tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam đối với bị cáo đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Về hình phạt: Hành vi phạm tội của Trương Ngọc T là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý đặc biệt của Nhà nước đối với chất ma tuý, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương mà còn trực tiếp gây tổn hại đến chính sức khỏe của bị cáo cũng như hạnh phúc gia đình và tương lai của bị cáo.

Là người đã có gia đình, cuộc sống ổn định nhưng bị cáo lại thiếu ý thức trong rèn luyện, lại thể hiện lối sống tự do, buông thả nên đã sa vào nghiện ngập ma túy, dẫn đến phạm tội. Vì vậy, cần thiết phải xử lý nghiêm minh, áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt, cũng như đáp ứng công tác phòng ngừa tội phạm chung trong cộng đồng hiện nay.

- Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.

- Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

- Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân, đồng thời thể hiện sự ăn năn hối cải trước pháp luật; bị cáo có bố đẻ được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhì; qua xác nhận của chính quyền sở tại thì gia đình bị cáo thuộc hộ cận nghèo, hoàn cảnh khó khăn; bị cáo đã ly hôn vợ, hiện đang nuôi dưỡng 02 con còn nhỏ; số ma túy mà bị cáo tàng trữ trong vụ án có trọng lượng không đáng kể (0,150g), mới trên mức tối thiểu của cấu thành định tội không nhiều. Do đó, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 BLHS. HĐXX sẽ cân nhắc yếu tố nhân thân và tình tiết này để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, tạo điều kiện cho bị cáo yên tâm cải tạo, sớm tái hòa nhập cộng đồng trở về đoàn tụ cùng gia đình, cũng như thấy được tính nhân đạo của pháp luật đối với người phạm tội có hoàn cảnh như bị cáo.

Xét thấy cần tiếp tục tạm giam đối với bị cáo để đảm bảo thi hành án hình sự, nên Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày, kể từ ngày tuyên án theo Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự .

[3] Về hình phạt bổ sung: Xét mục đích phạm tội của bị cáo không để thu lợi bất chính nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung (là phạt tiền) đối với bị cáo theo quy định tại Điều 35 và khoản 5 Điều 249 BLHS.

[4] Về xử lý vật chứng của vụ án:

- Số Heroine thu giữ của bị cáo cùng bao gói, Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hà Nam hoàn trả sau giám định, không có giá trị sử dụng, cần tịch thu và tiêu huỷ.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, HĐXX xác định là tài sản hợp pháp của Trương Ngọc T, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo (Tuy nhiên, tiếp tục thu giữ để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án dân sự).

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream, BKS 29H9-6307, HĐXX xác định là tài sản hợp pháp của chị Trương Thị H (là chị gái của bị cáo), chị H đã cho bị cáo mượn để làm phương tiện đi lại và không biết việc bị cáo sử dụng xe để thực hiện tội phạm. Do đó, trả lại chiếc xe mô tô này cho chị Trương Thị H.

[5] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Đều thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục và căn cứ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đều không có ý kiến hoặc khiếu nại gì đối với các hành vi, quyết định tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong các giai đoạn tố tụng đã thực hiện và ban hành đều hợp pháp, tuân thủ các nguyên tắc tố tụng cũng như đảm bảo việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm được giao theo quy định.

[6] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định pháp luật.

[7] Quyền kháng cáo: Bị cáo, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được thực hiện theo quy định của pháp luật.

[8] Về vấn đề khác: Trong vụ án này, Trương Ngọc T khai đi đến khu vực chợ thuộc thôn T, xã N để mua ma túy của một người đàn ông (nhưng không biết tên, tuổi, địa chỉ ở đâu). Ngoài lời khai duy nhất của bị cáo, không có thông tin chính xác về đối tượng trên nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh, xử lý theo quy định của pháp luật, do đó HĐXX không đề cập.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 BLHS.

Tuyên bố: Bị cáo Trương Ngọc T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt: Bị cáo Trương Ngọc Trung 16 (Mười sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 13/4/2021.

[2] Áp dụng Điều 47 BLHS và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu và tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong số 71/PC09-MT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam, ghi: “Mẫu vật hoàn trả QT01”.

- Trả lại bị cáo Trương Ngọc T: 01 điện thoại di động Nokia, vỏ ngoài màu xanh, đã cũ qua sử dụng, số IMEI: 353689089040003 (Tiếp tục thu giữ để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án dân sự).

- Trả lại cho chị Trương Thị H: 01 xe mô tô trên thân vỏ có chữ HONDA DREAM, lốc máy có dòng chữ TAIWAN, dung tích xi lanh 100, màu nâu, BKS 29H9-6307, số máy: C100MSE-1091061, số khung: C100MS-1091061.

(Các vật chứng nêu trên có đặc điểm, tình trạng, số hiệu được ghi trong biên bản giao, nhận vật chứng lập ngày 02/7/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện Lý Nhân và Chi cục thi hành án dân sự huyện Lý Nhân).

[3] Căn cứ Điều 136, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội:

- Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Trương Ngọc T phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

- Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định của các Điều 6,7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

116
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 41/2021/HS-ST

Số hiệu:41/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lý Nhân - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về